Nguyễn Phước Bửu Nam, Thái Hạo: Rừng, thủy điện và lũ

Tác giả: Thái Hạo & Nguyễn Phước Bửu Nam

Nguyễn Phước Bửu Nam: Nghĩ gì về khủng hoảng rừng Việt Nam: Mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn và bền vững sinh thái (nhân các trận lũ lụt dữ dội ở miền Bắc,miền Trung vừa rồi)

Huế ngập sâu trong lũ. Ảnh: Báo Tuổi Trẻ

Việt Nam, từng tự hào là một “quốc gia rừng”, hiện đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng sinh thái nghiêm trọng. Bản chất của vấn đề nằm ở sự đánh đổi đầy mâu thuẫn: chất lượng rừng đã bị hy sinh cho những mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thành tích hành chính tức thời. Bài phân tích này sẽ làm rõ mâu thuẫn cốt lõi đó thông qua các luận cứ khoa học, phương pháp thống kê và so sánh chặt chẽ.

1. Luận điểm Thống kê: Sự Phân Ly Giữa “Số Lượng” và “Chất Lượng”

Dù báo cáo chính thức công bố tỷ lệ che phủ rừng đạt  42%, các số liệu thống kê khoa học chỉ ra sự phân ly rõ rệt giữa diện tích rừng và chất lượng sinh thái của chúng.

1.1. Thực trạng Rừng Nguyên sinh: Gần như Xóa Sổ

 • Trước năm 1945: Rừng tự nhiên chất lượng cao chiếm khoảng 45% diện tích quốc gia.

 • Hiện nay: Tỷ lệ rừng nguyên sinh đích thực (rừng chưa bị tác động hoặc phục hồi tốt) ở Việt Nam chỉ còn 0.25% (theo một số nguồn nghiên cứu), một con số chỉ ra sự hủy hoại gần như hoàn toàn vốn rừng quý giá đã tích lũy qua hàng thiên niên kỷ.

1.2. Rừng Độc Canh: Phép Tính Gán Ghép

Phần lớn độ che phủ 42% hiện tại là rừng trồng độc canh (chủ yếu là Keo, Bạch đàn) – được ví như các nông trường cây công nghiệp. Việc gộp chúng vào chỉ tiêu “che phủ rừng” đã tạo ra sự đánh lừa về mặt sinh thái.

Loại Rừng Tỷ lệ trong Diện tích Che phủ (Ước tính) Khả năng Điều tiết Thủy văn Đa dạng Sinh học

Rừng Độc Canh (Keo, Bạch đàn) chiếm phần lớn diện tích rừng trồng. Khả năng thẩm thấu nước kém, khai thác ngắn hạn dễ gây xói mòn. Nghèo nàn. Chỉ là môi trường sống cho số ít loài.

Rừng Tự nhiên/Nguyên sinh còn lại Rất thấp. Nó giữ nước ngầm, giảm lũ lụt, điều hòa khí hậu cục bộ. Phong phú. Là kho dự trữ gen và tài nguyên sinh thái.

So sánh Khu vực: Tình trạng này càng rõ nét khi so sánh với các nước láng giềng Đông Nam Á. Trong khi Indonesia và Malaysia vẫn giữ được tỷ lệ che phủ tổng thể trên 50%và sở hữu những khối rừng mưa nhiệt đới chất lượng cao quan trọng mang tầm vóc toàn cầu, Việt Nam lại mất đi yếu tố sinh thái cốt lõi này.

2. Luận điểm Biện chứng: Mâu Thuẫn Lợi Ích và Chi Phí Hệ Sinh Thái

Cuộc khủng hoảng rừng là một ví dụ điển hình về mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn và sự bền vững của quốc gia.

2.1. Lợi Ích Tức Thời và Hậu Quả Dài Hạn

 • Lợi ích ngắn hạn: Nguồn thu từ khai thác dăm gỗ, chuyển đổi đất rừng kém chất lượng sang các dự án kinh tế (cơ sở hạ tầng, du lịch, nông nghiệp công nghiệp) mang lại tăng trưởng GDP nhanh chóng và giải quyết sinh kế cục bộ.

 • Chi phí dài hạn: Chi phí môi trường do mất rừng đã vượt xa lợi ích kinh tế.

Hành động Lợi ích Kinh tế Ngắn Hạn Chi phí Sinh thái Dài Hạn (Thiên tai)

Phá rừng làm đồn điền/công trình. Thu nhập, phát triển hạ tầng. Mất vĩnh viễn nguồn nước, tăng nguy cơ hạn hán và lũ lụt.

Khai thác Keo/Độc canh ngắn hạn. Doanh thu gỗ dăm, tạo việc làm. Suy giảm chất lượng đất, xói mòn, giảm khả năng chống chịu thiên tai.

Khai thác khoáng sản. Thu nhập từ vật liệu xây dựng. Phá hủy hoàn toàn cảnh quan và chức năng điều tiết của núi đồi, gây sạt lở thảm khốc.

Sự mâu thuẫn này chỉ rõ một sự thất bại trong việc định giá tài nguyên khi giá trị của gỗ khai thác được tính toán, nhưng giá trị của một khu rừng tự nhiên trong việc giữ nước, ổn định khí hậu và bảo tồn sự sống lại bị bỏ qua.

2.2. Vai trò Khoa học của Rừng trong Thủy văn

Khoa học thủy văn chứng minh rừng tự nhiên là một “nhà máy nước”và “bộ điều chỉnh khí hậu”tối quan trọng:

 • Sản sinh Nước: Rừng, đặc biệt là tầng tán cây, tham gia mạnh mẽ vào quá trình thoát hơi nước (Evapotranspiration), đưa hơi ẩm vào khí quyển, từ đó sinh ra mưa cục bộ. Mất rừng làm giảm độ ẩm và khả năng hình thành mưa ổn định.

 • Lọc và Lưu giữ: Hệ rễ và thảm mục dày đặc đóng vai trò bô lọc tự nhiên, giúp nước mưa thấm từ từ vào lòng đất để nuôi dưỡng mạch nước ngầm. Khi rừng biến mất, mưa lớn không thể thẩm thấu, chuyển thành dòng chảy bề mặt hung hãn, gây ra lũ lụt.

3. Luận điểm Biện chứng: Bài học Phục hồi và Giải pháp Bền vững

Để khắc phục khủng hoảng, Việt Nam cần áp dụng kinh nghiệm quốc tế và thay đổi mô hình phát triển.

3.1. Bài học về Tầm nhìn Dài hạn (Trung Quốc và Thái Lan)

 • Thái Lan: Sau trận lũ lụt tàn khốc năm 1988, Thái Lan đã ban hành lệnh cấm khai thác gỗ tự nhiên vĩnh viễn trên toàn quốc (năm 1989), chấp nhận đánh đổi lợi ích lâm nghiệp ngắn hạn để ưu tiên bảo tồn tuyệt đối nguồn rừng còn lại.

 • Trung Quốc: Dự án “Vạn Lý Trường Thành Xanh” (từ 1978) là minh chứng cho thấy ý chí chính trị và tầm nhìn dài hạn có thể tạo ra kỳ tích phục hồi sinh thái. Trung Quốc đã tăng độ che phủ rừng từ 8.6%lên 23% (năm 2020) thông qua việc trồng rừng nhiều loài, đa tầng để chống sa mạc hóa, mang lại lợi ích khí hậu và kinh tế bền vững.

3.2. Giải pháp Chuyển đổi Mô hình

Việt Nam cần một sự chuyển dịch mô hình phát triển từ Khai thác sang Tái sinh và Gìn giữ:

 1. Bảo vệ Tuyệt đối Rừng Tự nhiên: Thực hiện lệnh cấm khai thác gỗ tự nhiên vĩnh viễn và nghiêm ngặt.

 2. Tái sinh Sinh thái: Triển khai các dự án trồng rừng phục hồi đa dạng sinh học và chức năng tức là trồng rừng tự nhiên, không phải độc canh, mà theo mô hình “bức tường xanh” dọc các hành lang sinh thái quan trọng như Trường Sơn, Tây Nguyên.

 3. Tận dụng Cơ chế Kinh tế Mới: Phát triển kinh tế dựa trên dịch vụ môi trường rừng Thanh toán Dịch vụ Môi trường Rừng – (PFES) và kinh tế carbon (bán tín chỉ carbon). Cơ chế này định giá đúng vai trò của rừng trong việc cung cấp nước sạch và điều tiết khí hậu, tạo nguồn tài chính bền vững cho cộng đồng bảo vệ rừng.

4. Kết Luận

Rừng và Việt Nam có một “cộng đồng chung vận mệnh” không thể tách rời. Nếu không giải quyết tận gốc vấn đề suy thoái chất lượng rừng  thì sẽ không chấm dứt sự mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn và sự an toàn sinh thái, mọi nỗ lực phát triển khác đều đứng trước nguy cơ sụp đổ bởi thiên tai ngày càng cực đoan. Sự hồi sinh của rừng chính là sự hồi sinh cho cuộc sống của chúng ta và các thế hệ tương lai.

Nguyễn Phước Bửu Nam

***

Thái Hạo: Rừng và Việt Nam

Rừng nguyên sinh ở Việt Nam hiện chỉ còn 0.25%, nói cách khác là đã bị xóa sổ. Điều đáng kinh ngạc là trước 1945 con số này là khoảng 45%. Trong 30 năm tiếp theo (1945-1975) giảm xuống còn khoảng 20%. Đến năm 1990 rừng nguyên sinh gần như biến mất, chỉ còn từ 1-2%.

Báo cáo chính thức cho hay, hiện nay diện tích che phủ rừng của Việt Nam là 42%. Nhưng đây là “con số giả tạo” được làm ra do thay đổi “định nghĩa rừng” nhằm phục vụ cho mục tiêu hành chính và thành tích. Những ai đã đi từ Nam chí Bắc sẽ thấy “keo keo toàn keo”. Những vườn cây này không phải là rừng thật, chúng chỉ là các nông trường cây độc canh, tạo “cảm giác rừng”. Bên cạnh đó là rừng nghèo, rừng đã mất giá trị sinh thái và khí hậu.

Từ một “quốc gia rừng”, chỉ trong vài thập kỷ chúng ta đã mất tất cả. Và đây là một vấn đề nghiêm trọng bậc nhất, đe dọa sự ổn định, phát triển và an toàn của đất nước.

2. Vai trò của rừng

Có lẽ bất kỳ ai từng qua phổ thông cũng được dạy và học rằng rừng rất quan trọng. Nhưng tôi tin rằng không có nhiều người hiểu sâu sắc và thật sự cảm nhận được kiến thức đã học trong sự gắn bó thiết thân với những gì đã và đang xảy ra trong thời tiết của lãnh thổ.

Rừng giữ nước – giữ đất – khí hậu; mất rừng dẫn đến mất khả năng tự điều hòa, thiên nhiên phản ứng cực đoan. Nếu nói theo ngôn ngữ tự nhiên học thì những cơn mưa lịch sử chính là cách Trái Đất “trả lại” những gì chúng ta đã tước đi từ rừng.

Cụ thể, rừng không chỉ “nhận mưa” mà “sinh ra mưa” và “nuôi mưa”. Khi rừng biến mất, Trái đất mất đi cơ quan hô hấp và điều tiết nước của mình. Những cơn mưa nhỏ, đều đặn, ổn định và thấm sâu vào lòng đất nuôi dưỡng mạch nước ngầm quanh năm chảy xuống hạ du bị thay thế bằng nắng hạn lâu ngày và mưa lớn kéo dài, gây ra đủ thứ tai họa, từ khô hạn, lũ lụt, sạt lở, nhiễm mặn…

3. Nhìn ra thế giới và bài học cho Việt Nam

Về rừng tự nhiên, hiện nay Lào còn khoảng 46% diện tích, Campuchia khoảng hơn 40%, thế giới trung bình khoảng 30% – trong đó khoảng 1/3 là rừng nguyên sinh. Với con số 0.25%, Việt Nam gần như không còn rừng nguyên sinh — chỉ còn lại những “mảnh vụn rừng”.

Trung Quốc năm 1949 có tỷ lệ che phủ rừng khoảng 8,6 % diện tích rừng, đến năm 2020, nước này có tỷ lệ che phủ rừng khoảng 23,04 %.

Sau thập niên 1950, Trung Quốc đối mặt với nạn sa mạc hóa. Các vùng phía Bắc và Tây Bắc, đặc biệt là Nội Mông, Cam Túc, Thiểm Tây, Hắc Long Giang, liên tục bị bão cát, khô hạn, đất bay, ruộng mất. Đến thập niên 1970, lượng đất bị sa mạc hóa lên tới hơn 3.000.000 km² (gần 1/3 lãnh thổ). Bão cát từ sa mạc Gobi thường xuyên thổi qua Bắc Kinh, Thạch Gia Trang, thậm chí chí lan tới Nhật Bản và Hàn Quốc.

Trước tình trạng này, năm 1978, chính phủ Trung Quốc quyết định xây dựng một “bức tường xanh” dài hàng nghìn km bằng cây cối – nhằm ngăn gió, giữ cát, phục hồi đất đai, gọi là dự án Vạn Lý Trường Thành Xanh. Dự án này có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại về trồng rừng: Kéo dài qua 13 tỉnh, bao trùm 4,5 triệu km², sử dụng 42% diện tích đất Trung Quốc. Mục tiêu: trồng 35 triệu ha rừng chắn gió và phục hồi sinh thái từ năm 1978 đến năm 2050.

Kết quả: Sau hơn 40 năm thực hiện, tỷ lệ che phủ rừng của Trung Quốc tăng từ 8,6% năm 1949 lên hơn 23% vào năm 2020. Riêng khu vực phía Bắc, nơi từng “chết khô” vì cát, đã phục hồi hàng triệu ha thảm thực vật. Theo NASA, từ năm 2000-2017, Trung Quốc đã đóng góp tới 25% mức tăng thêm diện tích lá cây toàn cầu và phần lớn đến từ các chương trình trồng rừng này. Nhiều thành phố, như Bắc Kinh và Lan Châu đã giảm đáng kể số ngày có bão cát mỗi năm (giảm từ hơn 25–30 ngày xuống còn 2–3 ngày/năm). Một số vùng từng bị bỏ hoang nay đã trở lại canh tác được hoặc trở thành thành khu du lịch sinh thái.

Có rất nhiều bài học ở đây, có lẽ ai cũng tự mình rút ra được, nên tôi không “dài dòng văn tự” nữa. Chỉ nhấn mạnh rằng, trong khi chúng ta tàn phá và xóa sổ rừng thì cùng lúc đó Trung Quốc đã làm nên những kỳ tích trong việc trồng mới và tái sinh rừng. Không chỉ rừng, Trung Quốc không tàn phá thiên nhiên như Việt Nam. Hầu hết bạn bè tôi đi qua đó về đều nói rằng, chạy hàng nghìn km qua các loại địa hình nhưng không thấy nơi nào họ phá một ngọn núi. Còn chúng ta thì xúc vô tội vạ, hủy hoại không thương tiếc. Ngay Thanh Hóa thôi, và rất gần tôi là Nông Cống, họ phá như thể để hủy diệt. Tôi đã nhiều lần kêu la, nhưng hoặc không ai nghe hoặc rất lâu mới nghe thấy, khi núi đã biến thành vực sâu.

Những gì chúng ta đang phải chịu hôm nay không thể không có bàn tay con người Việt Nam, chính quyền Việt Nam. Tuy thế, không có đất nào không thể hồi sinh, nếu con người có tầm nhìn dài hạn và biết đi cùng quy luật tự nhiên. Rừng không chỉ là cây mà là hệ thống tái tạo nước, đất, khí hậu, văn hóa. Bảo vệ rừng không thể tách rời công việc thay đổi mô hình phát triển – từ khai thác sang tái sinh và gìn giữ.

Nếu Việt Nam biết học theo, có thể phát triển những “bức tường xanh” dọc Trường Sơn, Tây Nguyên, hoặc ven biển miền Trung – nơi thiên tai ngày càng cực đoan. Đó không chỉ là người bảo vệ rừng mà còn chính là người bảo vệ sự sống của con người.

Rừng và Việt Nam, trong cảm nhận của tôi, như hơi thở và sự sống, đây mới chính là là một “cộng đồng chung vận mệnh” thật sự. Không giải quyết được vấn đề rừng, mọi nỗ lực của chúng ta (nếu có) đều đứng trước nguy cơ thất bại hoặc trở nên mất hết ý nghĩa.

Mỗi người dân, dù không làm được gì lớn lao nhưng vẫn có thể chung tay bảo vệ và xây dựng ý thức về rừng một cách hiệu quả, bằng cách từ chối những món đồ nội thất và công trình từ rừng. Hành động nhỏ, làm nên ý nghĩa lớn. Hãy cùng nhau thức tỉnh để hổi sinh rừng và hồi sinh chính cuộc sống của chúng ta và các thế hệ con cháu mình.

Thái Hạo

***

Thái Hạo: Các hồ (thủy điện) đã tham gia như thế nào vào những trận lũ?*

Thủ phạm của lũ lụt về cơ bản là do mưa, điều ấy không cần bàn cãi. Nhưng điều tôi rất băn khoăn là các hồ (thủy điện) đã tham gia như thế nào vào tính chất của những trận lũ ấy, như tốc độ nước lên, đỉnh lũ, thời gian kéo dài của đỉnh…

Ví dụ như đối với Huế trong đợt lũ này, tôi hình dung rằng, hồ chứa như một cái bồn trung gian, hứng lấy và đựng nước mưa từ lưu vực đổ về. Sẽ có 2 trường hợp:

Trường hợp 1: nếu không có những cái hồ ấy thì tất cả nước mưa sẽ đổ thẳng xuống hạ du (thành phố Huế) thay vì được giữ lại một phần. Lúc này, hồ sẽ làm giảm đỉnh, tốc độ nước chậm hơn.

Trường hợp 2: Tuy nhiên, vấn đề sẽ phát sinh nếu những cái hồ chứa kia đã đầy trước khi trời mưa hoặc do mưa lớn kéo dài khiến nó đầy và buộc phải xả giữa lúc trời vẫn đổ nước. Lúc này, không những toàn bộ nước mưa sẽ đổ về như trong trường hợp không có hồ chứa mà hạ du còn phải nhận thêm cả phần do hồ chứa xả xuống cùng lúc. Nghĩa là lũ chồng lũ. Nó sẽ làm cho đỉnh lũ cao hơn, tốc độ nước nhanh và mạnh hơn.

Nếu lưu vực sông Hương là 2.000km², lượng mưa trung bình là 600mm, mưa liên tục trong 24 giờ, thì tổng lượng nước mưa sẽ là 1.200 triệu m³.

Nếu cùng khoảng thời gian mưa này mà các hồ (như Hương Điền, Bình Điền, Tả Trạch) cũng đồng loạt xả lũ với lưu lượng tổng là 3.300 m³/s thì tổng lượng nước sẽ là 285 triệu m³. Bằng 23.8% lượng nước mưa. Nói cách khác, đã có một lượng nước bằng 123.8% đổ về.

Nếu thời gian mưa kéo dài hơn hoặc/và lượng xả tăng lên, tỉ lệ có thể tăng lên 30-40%, tức là sẽ có 130-140% lượng nước xuống hạ du.

Mà trong tình hình thực tế của Huế ở đợt mưa này, do mưa lớn và kéo dài nên các hồ thủy đã mất tác dụng phòng lũ; không những thế, chúng được xả cùng lúc với lũ tự nhiên (nước mưa).

Những con số tính toán ở trên chỉ là tương đối và hết sức giản lược để dễ hình dung, chứ không dứt khoát phản ánh sát với thực tế. Nhưng nó cho chúng ta thấy “vai trò” của các hồ thủy điện trong tính chất của nhiều cơn lũ lụt suốt những năm gần đây ở nhiều địa phương trên khắp cả nước.

Nếu mưa nhỏ, mưa không quá lớn, thời gian ngắn thì việc có hay không có hồ thủy điện về cơ bản không có ý nghĩa nhiều. Vì lũ lụt nếu có cũng nhẹ nhàng. Còn nếu mưa lớn kéo dài (như Huế đợt này) thì hồ thủy điện trở nên vô dụng và không những thế, góp phần làm gia tăng lũ một cách cực đoan.

Tôi rất muốn đọc những phân tích của các nhà khoa học để biết chính xác, ví dụ như cơn lũ ở Huế lần này, thủy điện đã góp bao nhiêu phần trăm vào, nhưng hình như trước này chưa thấy một bài toán nào như thế được giải một cách tường tận, chi tiết, minh bạch (?).

Lũ chồng lũ (do xả thủy điện) không chỉ làm tăng đỉnh lũ mà hơn thế, tạo ra dòng chảy nhanh và mạnh. Một “quả bom nước” thả từ trên núi cao xuống khác hẳn với những dòng chảy được phân tán và đều đặn. Trên đường đi, chúng sẽ bào mòn, cuốn trôi, gây xói lở và ập vào nhà chỉ trong giây lát.

Tất nhiên còn những nhân tố khác tham gia vào một trận lụt, như quy hoạch và xây dựng, hệ thống thoát nước, độ che phủ của rừng, v.v., nhưng thủy điện dù không phải thủy phạm chính, vẫn là một yếu tố nghiêm trọng, thậm chí gây nên thảm họa.

Trên dữ liệu thực tế và liêm chính, hi vọng được đọc những tính toán của các nhà khoa học về nhân tố thủy điện trong các đợt lũ, để thấy lưu tốc dòng chảy, phần trăm lượng nước góp vào, thời gian đạt đỉnh và duy trì đỉnh, đỉnh kép…, cụ thể ra sao.

Nhưng một cách cơ bản, các hồ thủy điện dù không phải thủ phạm chính, nhưng chúng làm thay đổi đặc tính và chu kỳ lũ lụt. Khi hệ thống vận hành thiếu đồng bộ, thiếu minh bạch, hoặc được phân phối bởi lợi ích kinh tế, thì chính các hồ này đã trở thành thành tác nhân làm trầm trọng thêm thiên tai mà lẽ ra họ phải giúp giảm bớt.

Vì thế, theo tôi, để hướng đến một kịch bản phát triển bền vững, dứt khoát phải: Tăng cường hoạt động minh bạch dữ liệu: công khai thời gian, lưu lượng xả của tất cả hồ trên cổng thông tin thời gian thực (giữa thời buổi này, không thể cứ tiếp tục nhỏ giọt thông tin mãi được); phải Quy hoạch lại thủy điện nhỏ: loại bỏ những dự án ở đầu nguồn, vùng rừng già, sông ngòi ngắn; phải Tăng cường dự báo và cảnh báo lũ lụt bằng công nghệ số – hiển thị trực quan bằng biểu đồ; phải Tích hợp lợi ích thủy điện với sinh thái – dân sinh thay vì chỉ tập trung vào điện năng.

Thái Hạo

*Tựa do Tạp chí Thế Kỷ Mới đặt theo một ý trong bài viết

Có thể bạn cũng quan tâm