Trích trong cuốn “Hoàng Đức Nhã khát vọng chưa thành” của Đinh Quang Anh Thái

Ngày 30 tháng Tư 1975, khi quân Cộng Sản Miền Bắc tiến vào Sài Gòn, hàng trăm ngàn người Miền Nam buộc phải trốn chạy khỏi quê hương, trong số đó có ông Hoàng Đức Nhã và gia đình.
Sau đây là câu chuyện của người tỵ nạn Hoàng Đức Nhã, nguyên bí thư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cũng là cựu tổng trưởng Dân Vận – Chiêu Hồi.

Chicago – Illinois, một buổi sáng gần cuối mùa Đông năm 2024, ngồi trong phòng ăn nhà ông Nhã, vừa nhâm nhi tách trà, vừa chậm rãi ăn từng mẩu khoai, ông kể cho tôi nghe về hành trình của gia đình ông vào những ngày cuối cùng trước khi Miền Nam bị quy về một mối, “một mối hận thù, một mối đau thương” như câu thơ của cố Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện.
*** Ông Nhã hồi tưởng, Sài Gòn, tuần lễ cuối cùng của tháng Tư 1975, không khí như đặc quánh lại, tức giận, hốt hoảng, lo âu. Người đi ngày càng đông hơn, người về ngày càng thưa thớt hơn. Đi về còn ai nhận ra ai! Trong bối cảnh người người ùn ùn tìm đường tháo chạy, ông Nhã từ Singapore quay về Sài Gòn sau một chuyến đi vội vã kéo dài hai ngày để nghe thông điệp của Thủ tướng Lý Quang Diệu: “The game is over – ván bài đã xong.”
Dù được lãnh đạo Singapore nhiệt tình ngỏ ý giữ lại và sẽ cho máy bay riêng về Sài Gòn đón gia đình ông đi, ông Nhã vẫn quyết định về. Về, vì còn mẹ già. Về, vì còn vợ và ba con nhỏ. Về, cũng vì nhiệm vụ đã hoàn tất, không thể nhân cơ hội đang ở ngoài vùng “dầu sôi, lửa bỏng” mà trở thành “kẻ đào tẩu”.
Nhưng cuối cùng ông cũng phải ra đi. Vì ở lại, như lời cảnh cáo của ông Lý Quang Diệu, “tôi lo cho sinh mạng anh và gia đình anh khi họ vào”.
Cùng với mẹ, một cô em gái, vợ, ba đứa con và đứa cháu, chiều 28 tháng Tư, ông Nhã đành đoạn bỏ lại Sài Gòn sau lưng để hướng tới một tương lai vô định.
“Tâm trạng lúc máy bay cất cánh khó tả lắm: Phẫn uất. Buồn. Đau. Tê dại. Sững sờ”, ông nói.
Khi máy bay rời phi đạo cất cánh lên cao, qua khung cửa hẹp, nhìn xuống thấy ánh lửa bùng lên do những trái pháo của Cộng quân bắn vào các phi đạo và các nhà chứa máy bay, lòng đau như cắt. Tân Sơn Nhất, phi trường mà ông Nhã rất quen thuộc vì đã từng ra vào không biết bao nhiêu lần mỗi khi đi công tác nước ngoài cũng như trong nội địa, lùi dần rồi không còn nhìn thấy được nữa khi máy bay vút lên cao.

mùa Thu lá vàng ở Chicago.
Những ngày đầu tiên “chân ướt chân ráo” đến Mỹ, không còn tư cách đại diện chính phủ đi công cán, mà là một người tỵ nạn, tâm trạng của ông ra sao? Giọng ngậm ngùi, ông Nhã nhớ lại, lúc đó, không biết bao giờ có dịp quay lại cố hương, không biết những ngày trước mắt rồi sẽ về đâu, về đâu. Ông bảo, ưu tiên của ông lúc bấy giờ là làm sao có mái nhà cho gia đình, có cơm trên bàn, có trường để các con đi học. Với ông, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, lúc nào cũng cũng phải ưu tiên lo cho gia đình, lo bằng sức mình chứ không ngồi đó mà trông mong người khác giúp.
Ông Nhã có đem theo nhiều tiền không, tôi xin phép ông để thẳng thắn hỏi ông câu đó, ông nói ngay, chẳng có gì phải che dấu, toàn bộ số tiền mang theo đến Mỹ là 1,600 đô la. Số tiền đó, do thân mẫu của ông có cơ sở buôn bán gạo ở Nha Trang. Lúc Nha Trang mất, cụ bà đem được một số tiền khi bỏ chạy vào Sài Gòn. Nhờ vậy, trước khi đi, ông đổi số tiền đó thành Mỹ kim theo giá chợ đen được vỏn vẹn có thế thôi. Ông nói, ông rời khỏi chính phủ đầu tháng 11 năm 1974 nên sau đó đâu còn lương bổng gì nữa.
Nghe ông nói thế, tôi thắc mắc là sau khi không còn giữ chức tổng trưởng Dân Vận – Chiêu Hồi, ông vẫn làm việc trong Phủ Tổng Thống với tư cách bí thư, chẳng lẽ ông không nhận được đồng lương nào?
Ông giải thích, lúc ông trở lại làm bí thư cho tổng thống, không phải là một nhân viên của Phủ Tổng Thống mà như là một cố vấn riêng của tổng thống, một thứ cố vấn do chính tổng thống trả lương với quỹ riêng của tổng thống, và ông vẫn còn giữ “security clearance” cho nên được phép đọc hết các tài liệu mật mà cơ quan tình báo trình cho tổng thống và các tòa đại sứ gởi về, liên quan đến vấn đề liệu Mỹ còn duy trì sự giúp đỡ Việt Nam như Tổng thống Nixon đã long trọng hứa với Tổng thống Thiệu. Ngoài ra, phần lớn trách nhiệm của ông là phác họa cho tổng thống những tình huống nào khả thi (scenarios planning) trên phương diện quân sự, chánh trị, và đặc biệt là tính toán của Bắc Việt khi họ thấy Mỹ dần dần cắt đứt viện trợ cho Miền Nam. Các quốc gia thật thân với Việt Nam Cộng Hòa như Đại Hàn, Đài Loan, Singapore đều biết ông đã trở về giúp Tổng thống Thiệu, và những đại diện của các vị lãnh đạo này – không phải là các ông đại sứ – thường gặp ông để cho biết tin tức về thái độ và dự tính của chánh phủ Mỹ mà họ biết được.
Ông Nhã là người được dư luận “dòm ngó” tới rất nhiều từ trước 1975 ở Sài Gòn và ngay cả sau này khi qua Mỹ. Trong những lúc “trà dư, tửu hậu”, một số người tỏ ra rành chuyện cho rằng ông Nhã sướng lắm, được Mỹ “bốc” đi ngay, không phải trải qua, dù một ngày, sắp hàng lãnh cơm ăn trong các trại tỵ nạn như cả trăm ngàn người khác. Thậm chí, có người còn quả quyết y như chính họ “tai nghe, mắt thấy” rằng ông còn mang theo một “cặp táp đầy đô la và hột xoàn”.
“Chuyện đó y như trong xi-nê”, ông Nhã cười khoái chí, rồi bảo, “chuyện người thật – việc thật” quả thật, ông được sự ưu đãi, giúp đỡ nhưng không phải từ người Mỹ mà từ những “bằng hữu” xưa người Đài Loan.
“Chuyện người thật – việc thật” của ông là thế này: Ông Nhã rời Sài Gòn 28 tháng Tư, chuyến bay dừng ở Subic Base bên Phi Luật Tân, rồi đảo Guam lãnh thổ tự trị của Mỹ, ghé lại Honolulu vài ngày rồi bay tiếp đi San Francisco. Người Mỹ nói họ đưa những người di tản đến đây rồi, bây giờ người di tản phải chọn nơi định cư. Do có một số bạn đồng nghiệp và bạn Mỹ ở vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn nên ông xin đi Virginia giáp ranh Washington D.C để hy vọng dễ kiếm được việc làm. Lúc bây giờ, Mỹ đang rơi vào tình trạng kinh tế suy trầm, rất khó kiếm sinh kế.
Trước khi rời Sài Gòn, ông Nhã đã chuẩn bị sẵn và đem theo được bằng kỹ sư điện tốt nghiệp ở Mỹ để mong tìm được việc làm khi đến xứ sở này. Dù có bằng tốt nghiệp ở Mỹ, trong hai ba tháng liền, ông vẫn không kiếm được việc.
Thế rồi một ngày ông bỗng nhận được một cú điện thoại của một viên chức làm việc trong Tòa đại sứ Đài Loan ở Washington DC, người đó nói họ muốn gặp ông. Ông thắc mắc không biết gặp để làm gì, nhưng vẫn đến gặp.
Hóa ra, họ muốn giúp ông vì họ biết thời ông còn làm cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, ông vẫn thường đi công tác bên Đài Bắc, một năm có khi vài lần.
Viên chức trong tòa đại sứ Đài Loan ở DC nói với ông Nhã rằng, họ cũng từng ở hoàn cảnh như ông khi họ buộc phải bỏ Hoa Lục qua Đài Loan năm 1949, cho nên họ muốn giúp ông. Nghe họ nói thế, ông Nhã nghĩ rằng, chắc chắn là họ phải nhận được chỉ thị từ Đài Bắc để tiến hành việc giúp ông.
Ông Nhã từng được gặp Tổng thống Tưởng Giới Thạch và được “ông già” thương lắm. Ông kể, lãnh đạo Đài Bắc thích vỗ lên đầu ông và nói “hảo pố hảo”, nghĩa là “very good”. Ông Nhã nói, theo cách hiểu của Phật Giáo thì hẳn rằng giữa ông và ông Tưởng Giới Thạch có “thuận duyên” với nhau. Ông nhớ lại, có vài lần ông mang quà của Tổng thống Thiệu biếu Tổng thống Tưởng. Quà là năm ký Hồng Yến, một loại tổ yến vẫn còn máu của con yến nên được xem là rất quý, rất tốt cho sức khỏe người dùng. Hồng Yến chỉ có ở Đảo Yến tại Nha Trang và đó là món quà mà vị thống chế họ Tưởng từng đối đầu “sống-chết” với Mao Trạch Đông rất thích. Tổng thống Tưởng Giới Thạch cũng đáp lễ bằng cách cho nhân viên cao cấp sang Việt Nam biếu quà Tổng thống Thiệu.
Ngoài những lần gặp lãnh đạo Đài Bắc, ông Nhã còn họp nhiều lần với nhiều viên chức cao cấp của chính phủ để thảo luận về các chương trình hợp tác giữa hai nước. Trong thời gian chiến tranh, chính phủ Đài Bắc đã gửi nhiều chuyên viên ngân hàng Nông Nghiệp và kỹ sư Nông Nghiệp sang giúp Việt Nam Cộng Hòa trong hai lãnh vực này và nhiều lãnh vực khác nữa. Những viên chức đó sau này có người là chủ tịch Thượng Viện, có người là bộ trưởng Ngoại Giao… Thành ra, ông Nhã nghĩ chắc là một người nào đó ở cấp cao chỉ thị cho Tòa đại sứ Đài Loan tại Mỹ tìm cách giúp ông.
Trong bữa cơm trưa họ mời ông Nhã tại tòa đại sứ, họ rất lễ nghi, gọi ông Nhã là “ông tổng trưởng” và nói chắc rằng ông qua đây cũng cần tìm việc làm. Một người nhìn ông cười cười và hỏi “do you like to run a grocery store” (“có muốn bán chạp phô không?”), ông cười và hỏi lại “tiệm chạp phô gì?”, người đó nói, là bán tạp hóa các món hàng Á Đông vì vùng thủ đô có rất nhiều người Á Đông sinh sống. “Bán chạp phô”, chưa bao giờ ông Nhã hình dung việc buôn bán này ra sao, nhưng vẫn trả lời: “tôi chưa bao giờ buôn bán gì cả, mặc dù má tôi buôn thúng bán bưng rồi từ từ dựng nên sự nghiệp để nuôi các con kể từ khi ba tôi mất lúc tôi còn nhỏ, nhưng tôi chắc là tôi cũng có cái ‘gin’ của má tôi trong máu nên có thể buôn bán cũng được.”
Nghe ông Nhã nói vậy, anh nhân viên Tòa Đại Sứ Đài Loan nói, anh ta có người bạn có một tiệm chạp phô nhỏ ở thành phố Falls Church, tiểu bang Virginia và đang muốn mở một tiệm lớn hơn ở khu vực khác. Anh này hỏi ông Nhã có muốn sang cửa tiệm chạp phô ở Falls Church không thì anh ta sẽ tìm cách giúp đỡ.
Ông Nhã cười rất sảng khoái nói với tôi, lúc đó trong đầu ông nghĩ, chà, căng dữ à nghen, tiền đâu ra mà sang được cửa tiệm đây? Anh nhân viên nói “không sao, để chúng tôi giàn xếp, ông cứ đồng ý thì chúng tôi sẽ nói với người chủ tiệm.” Dĩ nhiên là ông Nhã đồng ý vì đây là cơ hội tìm hiểu một nghề buôn bán mà xưa nay ông không hề quen thuộc và hơn nữa là có tiền nuôi gia đình.
Mấy ngày sau, anh nhân viên tòa đại sứ đưa ông Nhã đi gặp ông chủ tiệm chạp phô. Tiệm nhỏ nhưng rất sạch sẽ, hàng hóa trưng bầy đâu ra đó. Các mặt hàng là nước mắm, xì dầu, đường, muối, ớt, dấm xủ, gạo, rau quả, trái cây trong lon như vải, mít, xoài, măng, bún khô…
Ông chủ tiệm rất niềm nở bảo ông Nhã không cần đặt “tiền thế chân”, chỉ cần mỗi tháng trả cho ông ấy một ngàn đô la, và với số hàng bán ra mua vào, sau khi trừ tất cả mọi chi phí gồm tiền thuê nhà, điện nước, đóng thuế, ông Nhã vẫn còn tiền trả hàng tháng cho ông ta và tiền lo cho gia đình.
Thế là sau hai tháng rời Việt Nam sang Mỹ tỵ nạn, ông cựu tổng trưởng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Hoàng Đức Nhã bắt đầu một “sự nghiệp” mới: bán chạp phô.
Ông Nhã kể, từ ngày ấy, ông biết đủ mọi ngõ ngách ở Virginia và Washington DC; biết chỗ nào mua rau, chỗ nào bán trái cây, chỗ nào lấy nước mắm, xì dầu, gạo… với giá sỉ.
Có bao giờ ông phải khuân gạo? Có chứ, vì chỉ có hai vợ chồng trông coi cửa tiệm, má ở nhà lo cơm nước, ba đứa con còn nhỏ đi học cả ngày, vợ ngồi quầy tính tiền, “còn tôi làm phu khuân vác, từ rau quả, trái cây và thường xuyên khuân những bao gạo 25 pound từ trong tiệm ra xe cho khách mua hàng.”
“Nghề nghiệp không đem đến phẩm giá cho con người mà chính con người đem phẩm giá đến cho nghề nghiệp”, câu nói này hoàn toàn đúng với ông Nhã. Ông nói với tôi, ngay từ bé, ông luôn tâm niệm, đời sống có lúc lên có lúc xuống, lúc nào, hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng. Ông bảo, tình cảnh khó khăn là một cái thang, leo lên hay bước xuống là do mình.

Hỏi ông một ngày từ sáng tới tối, sinh hoạt của ông chủ tiệm chạp phô Hoàng Đức Nhã gồm những gì, ông tả, rất chi tiết: Tiệm mở cửa lúc chín giờ sáng. Căn nhà ông mướn cách tiệm khoảng 15 phút lái xe. Sáng ông dậy sớm lo cho hai con lớn ăn sáng rồi dẫn chúng ra chỗ đợi xe bus của trường đến đón. Cháu út lúc bấy giờ còn nhỏ nên ở nhà với bà nội. Ở nhà cả ngày thì có má ông, cô em gái, đứa con trai út và đứa cháu con của anh hai Hoàng Đức Ninh. Ông và vợ ra mở cửa tiệm. Việc đầu tiên là phải kiểm điểm xem mặt hàng nào còn đủ bán, mặt hàng nào thiếu, mặt hàng nào hết. Bà Minh Công, vợ ông Nhã lo kiểm soát cái tủ lạnh xem còn rau tươi, giá sống, tầu hũ, sữa… Nếu mặt hàng nào thiếu hoặc bán hết rồi thì ngày hôm sau ông lái xe đi mua ở các kho vựa bán sỉ.
Riêng tầu hũ và giá sống, trước kia, người chủ cũ phải mua bên ngoài, nhưng khi ông Nhã sang lại tiệm chừng hai ba tuần thì một hôm ông hỏi má ông có biết cách làm giá sống và tầu hũ không, má ông nói biết chứ. Thế là từ đó hai món hàng này do má ông làm để mỗi ngày ông chở từ nhà ra tiệm bán. Ông Nhã tỏ ra tự hào khi nói về món giá sống do má ông làm: cọng giá mập và ngon, ai cũng thích mua.
Trong ngày, niềm vui của vợ chồng ông là nghe tiếng chuông treo ngay cửa ra vào kêu leng keng, báo hiệu có khách vào mua hàng, “như vậy là hôm nay có tiền rồi”, ông nói. Nhưng cũng có những lúc ngồi “ngáp ruồi” vì chả có ai vô mua hàng.
Khoảng thời gian đông khách nhất là từ năm giờ chiều đến bảy giờ tối, là lúc người ta đi làm về ghé ngang tiệm mua bó rau, củ hành, lon sữa, bịch giá, bìa tầu hũ, chai nước mắm… Bảy giờ thì vợ chồng ông đóng cửa và trước khi về còn phải dọn dẹp cho tiệm sạch sẽ để hôm sau đón một ngày mới. Về đến nhà, bữa cơm do má làm đã dọn sẵn, cả nhà ngồi ăn, trò chuyện; vợ ông tổng kết “thành tích” một ngày bán chạp phô, còn ông xem bài vở của hai con, viết xuống sổ những loại hàng nào ngày mai phải đi mua, sau đó đi ngủ để lấy sức cho ngày mới.
Tóm lại, bảy ngày một tuần, từ sáng sớm đến tối, sinh hoạt của ông Hoàng Đức Nhã là như vậy.
Về việc lấy hàng thì trong ngày, nếu những hàng nào hết mà chung quanh Virginia, nhất là thủ đô D.C. có bán thì ông Nhã phóng xe đi mua ngay đem về. Lúc đó vợ ông coi tiệm một mình. Mỗi tháng một lần vào ngày Thứ Hai, vợ chồng ông đóng cửa tiệm để lái xe đi New York mua hàng. Chiếc xe van cũ kỹ, do chủ cũ để lại, vậy mà ông lái phom phom đoạn đường Virginia-New York, ông thích thú nhớ lại, vừa lái xe vừa ngắm cảnh tuyệt đẹp, nhất là vào mùa Thu lá vàng rực rỡ hai bên đường.
Những ngày như thế, hai vợ chồng ông Nhã rời Falls Church lúc năm giờ sáng, lái xe năm tiếng rưỡi đồng hồ mới tới New York, và nhờ anh chủ cũ hướng dẫn, hai vợ chồng đi hết chỗ này đến chỗ nọ mua đủ loại hàng. Tiệm chạp phô, chạp phô đọc theo giọng Quảng Đông có nghĩa làtạp hóa, mà tạp hóa là đủ loại, đủ thứ hàng hóa (cười thoải mái).
Khoảng bảy giờ tối, sau khi “vét” đủ mặt hàng, vợ chồng ông ghé Phố Tầu ăn cơm, rồi mua thịt quay, vịt quay về cho cả nhà ăn. Về tới Falls Church gần một giờ sáng hôm sau, hai ông bà chưa về thẳng nhà mà phải đến tiệm chất hàng từ xe xuống. Nên về đến nhà, leo lên giường ngủ cũng hơn ba giờ sáng. Ngủ được ba tiếng đồng hồ là choàng dậy bắt đầu một ngày mới “vui đời bán chạp phô.”
Có khi nào ông mang tâm trạng “tủi thân” vì một thời “tiền hô -hậu ủng” nay thì lái xe đi mua hàng, khuân gạo cho khách, đếm tiền lẻ bán bó rau, bịch giá, bìa đậu hũ…
(nụ cười tự tin) KHÔNG! Ông nói, trời phú cho ông bản tính và khả năng tùy cơ ứng biến.
Ông Nhã rất thích triết lý sống của danh sĩ Ngô Thì Nhậm thời hậu Lê và Tây Sơn “gặp thời thế, thế thời phải thế.” Sang Mỹ, ông bảo, “cần việc làm nuôi gia đình thì phải bươn chải, xoay sở, chứ chẳng lẽ cứ ngồi đó than thân trách phận. Bán chạp phô, suốt ngày loay hoay, hết mua hàng, lại khuân gạo… làm gì có thì giờ mà ngồi nghĩ vẩn vơ, mà tủi thân – tủi thiếc gì!”.
Ông Nhã nói, ông còn có niềm vui là biết mua bán hàng, biết mua rau ở vựa nào thì rau tươi, chỗ nào gạo ngon giá rẻ, biết lái xe đi hang cùng ngõ hẻm ở New York lùng sục kiếm hàng …mấy ai ở vị thế như ông có được những kinh nghiệm đó.
Thu nhập của tiệm chạp phô có đủ cho gia đình ông sinh sống và hàng tháng trả một ngàn cho chủ cũ không? Ông Nhã nhớ lại, những tháng đông khách, tổng số thu của tiệm là khoảng bốn ngàn đô la, trừ chi phí tiền nhà, điện nước, tiền mua hàng, tiền một ngàn trả chủ cũ, ông còn trên dưới một ngàn để chi tiêu cho gia đình. Tháng nào bán chậm thì thu được khoảng ba ngàn, trừ hết mọi thứ thì vợ chồng ông cầm về được được hai ba trăm. Nghĩa là tháng đó khó khăn, phải “thắt lưng buộc bụng”.
Kẻ viết bài này còn nhớ, tờ báo New York Times có lần đăng một bài phóng sự về những người mới nhập cư vào Mỹ. Tác giả bài báo kể một câu chuyện và nhắc nhở người đọc không nên “judge the book by its cover”, chớ “trông mặt mà bắt hình dong”.
Bài viết của báo New York Times kể câu chuyện xẩy ra tại một bệnh viện ở Mỹ: một người lao công quét dọn đang cặm cụi lau sàn bệnh viện thì một bác sĩ đi ngang, đi phía sau là một nữ y tá. Cô y tá gọi vói theo, thưa bác sĩ, vị bác sĩ quay đầu lại, và người lao công cũng ngoái đầu về hướng cô y tá.
Ký giả bài viết nhắc nhở người đọc rằng, người lao công trong câu chuyện là một bác sĩ thời ông ta còn sống trên quê hương của ông ta. Bây giờ ông ta là “fresh off the boat”, chưa hội nhập được vào xã hội mới, nhưng sẽ có một ngày, ông ta sẽ mặc áo choàng trắng, cổ đeo ống nghe trở lại nghề cũ khi mọi việc đã ổn định.
***
Câu chuyện tiệm chạp phô được ông Nhã kể lại vào buổi sáng tháng Ba 2024, bầu trời Chicago đùng đục, nhiệt độ xuống còn 30 độ F, trên bàn ăn nhà ông có một đĩa khoai lang đỏ do ông luộc còn nóng; hỏi ông, khoai lang là món ăn dân dã, nhà nghèo, phải chăng củ khoai là kỷ niệm thời thơ ấu của ông hay là món ăn của những ngày vất vả với tiệm chạp phô, ông nói, khoai lang là kỷ niệm thời mới lớn, vì ông sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo, ba ông mất sớm, má ông buôn bán nuôi một bầy con, ông đi học với củ khoai lang, củ khoai mì trong cặp táp, hôm nào có nắm xôi nhỏ là vui lắm rồi. Thành ra, lớn lên, ngay cả lúc thành đạt, ông vẫn có thói quen ăn khoai lang, khoai mì do chính tay ông luộc. Nhiều bạn thân đến nhà ngạc nhiên thấy ông “khoái khẩu” món ăn nhà nghèo này, ông bảo họ “món này ngon hơn bánh mì bơ của bọn mày đó”. Tới ngày hôm nay, như vậy là đã hơn 70 năm, ông vẫn còn nhớ mùi khoai thuở thiếu thời.
Thời gian bán chạp phô, có khách hàng người Việt không và nếu có, họ có biết người đàn ông to khỏe, đẹp trai “khuân gạo”, “bán nước mắm” là ông cựu Tổng trưởng Dân Vận – Chiêu Hồi của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không?
Có nhiều khách hàng người Việt, ông Nhã cho biết. Họ định cư tại Virginia hoặc các tiểu bang lân cận, ngày trong tuần, nhất là cuối tuần, họ đến tiệm mua hàng nhiều lắm. Có nhiều người quen trước kia ở Sài Gòn, có cả nhân viên cũ thời ông Nhã làm cho chính phủ đến mua hàng rồi ngồi lại hàn huyên tâm sự chuyện xưa, chuyện nay. Có hai vị khách đặc biệt sống tại Virginia là cựu Đại tướng Cao Văn Viên và cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Ông Nhã cho biết, ông với “anh Trưởng” có tình thân như anh em vậy. Vì hồi 1954, trước khi mất Điện Biên Phủ, có bốn tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam do Pháp huấn luyện – trong số sĩ quan Dù có Anh Hai của ông Nhã là Trung úy Hoàng Đức Ninh – thay vì nhảy vào Điện Biên Phủ thì được tái phối trí vào Nha Trang và đóng quân tại Đồng Đế, cách nhà ông Nhã chừng 20 phút lái xe. Mỗi cuối tuần, ông Ninh thường đưa một số sĩ quan cùng đơn vị về nhà chơi và lần nào má ông Nhã cũng nấu cơm mời các bạn con mình ăn, trong đó có Đại úy Đỗ Cao Trí, Trung úy Nguyễn Khoa Nam, Thiếu úy Ngô Quang Trưởng.
Ông Nhã nhớ lại, “anh Trí” là người nói nhiều nhất, “anh Trưởng” ít nói, còn “anh Nam” to con, hiền lành, như một ông thầy tu.
Do tình thân như thế nên lúc lớn lên, ông Nhã gọi các ông ấy bằng anh. Như mọi người đều biết, ông Đỗ Cao Trí sau này lên đại tướng và là Tư Lệnh Quân Đoàn III, bị tử nạn trong một vụ nổ trực thăng không rõ nguyên nhân; ông Nguyễn Khoa Nam năm 1975 đeo lon thiếu tướng và là Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Tướng Nam tự sát ngày 30 tháng Tư; còn ông Ngô Quang Trưởng là trung tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày mất miền Nam.
Trở lại câu chuyện lúc ông Nhã bán “chạp phô”, ông kể, một hôm “anh Trưởng ào vào tiệm, nói ‘anh mới nghe người ta nói Nhã bán tạp hóa, sao gan vậy’; ông Nhã nói với ông Trưởng, “tới đất mới thì việc gì cũng phải làm chớ anh!”
Sau khi biết “cậu em” và cũng là “anh tổng trưởng” thuở nào nay bán chạp phô, ít nhất mỗi tuần một lần, ông Trưởng đến chơi nói chuyện vãn với ông Nhã những lúc tiệm vắng khách.
Ông Nhã kể, tiệm ở phía trước là nơi bầy hàng và quầy thâu tiền, phía sau có một phòng nhỏ làm kho chứa hàng và một cái bàn, vài cái ghế. Ông Trưởng thường ngồi chỗ đó, hút thuốc, hoài niệm những ngày ở Nha Trang “Nhã có nhớ ngày xưa má của Nhã nấu món này món nọ thiệt ngon” nhưng không bao giờ ông Trưởng đề cập đến chuyện quân ngũ hay chuyện rút quân khỏi miền Trung.
Rồi cựu Đại tướng Cao Văn Viên xuất hiện. Ông Viên nói, nghe Trưởng cho biết Nhã có tiệm chạp phô nên đến thăm. Một hôm, ông Viên thấy ông Nhã khuân bao gạo đem ra xe cho khách, chân đi cà nhắc, ông hỏi ông Nhã bị đau làm sao, rồi ông bảo ông Nhã ngồi xuống ghế, ông Viên ra xe lấy một bộ kim châm cứu để châm các huyệt trên đầu gối ông Nhã.
Thật hay, không biết ông Viên học châm cứu ở đâu, ông Nhã nói. “Ôi chao thật vinh dự! Thật cảm động, vì không ngờ có ngày mình giơ chân cho ông đại tướng chữa bệnh khiến tôi không bao giờ quên hình ảnh ông Viên lui cui châm từng mũi kim vào đầu gối tôi.”
Bán “chạp phô” bao nhiêu năm, hôm nay ngoái lại nhìn “một bến bờ” đã qua đó, ông nhớ gì nhất?
Ông Nhã nói, ông “khởi nghiệp” bán “chạp phô” giữa tháng Sáu 1975, vừa bán hàng vừa gửi đơn đi nhiều công ty xin việc làm. Lúc ấy, có mấy người bạn Mỹ trước kia làm trong Quốc Hội, làm trong Tòa Bạch Ốc, nay họ thành lập một công ty tư vấn, họ mời ông làm việc, hỏi nhận định của ông về tình hình thế giới – nhưng thực sự là họ giúp ông một cách khéo léo để ông có thêm lợi tức.
Tới tháng Chín năm 1976, tức là hơn một năm sau khi làm tiệm chạp phô, thì một hôm ông Nhã nhận được một cú điện thoại của hãng GE (General Electric) báo cho biết họ có nhận được đơn xin việc của ông trong đó có phần “resumé” bao gồm bằng tốt nghiệp kỹ sư và những chức vụ ông từng đảm nhiệm trước khi di tản sang Mỹ. Họ cho biết một ông giám đốc đặc trách về nhân sự của GE sắp đi công tác vùng thủ đô Washington và muốn gặp ông. Nghe thế, ông Nhã rất mừng. Vì “human resource general manager” muốn gặp tức là mình đã “lọt vào mắt xanh” người ta rồi.
Hôm gặp ông giám đốc đặc trách về nhân sự của GE tại một khách sạn ở Washington DC, ông ta và ông Nhã nói chuyện với nhau hai tiếng đồng hồ. Ông ta hỏi ông Nhã đủ thứ chuyện, từ lúc học Mỹ tới lúc làm cho chính phủ…, sau cùng, ông ta nói rằng sẽ sắp xếp công việc nào phù hợp với khả năng để ông Nhã làm việc cho GE rồi báo cho ông Nhã biết.
Ngay lúc đó, ông Nhã nghĩ, “vậy là sắp hết duyên bán chạp phô rồi”.
Ba tháng sau ngày gặp, ông giám đốc đặc trách về nhân sự của GE gọi điện thoại báo cho ông Nhã biết GE nhận ông vào làm trong bộ phận “international marketing” (tiếp thị thế giới) với đồng lương khởi đầu là 25 ngàn một năm. “Trời ơi! Mừng quá”.
Ông Nhã nhớ lại, cuối năm 1976, lương 25 ngàn một năm là lớn lắm. “Ôi! Sung sướng quá, trả lại tiệm chạp phô cho chủ cũ.”
Chủ cũ bằng lòng lấy lại tiệm vì những người bạn ở tòa đại sứ Đài Loan đã thỏa thuận với ông Nhã, khi nào ông không muốn bán “chạp phô” nữa thì cứ trả cho chủ cũ. “A friend in need is a friend indeed” (một người bạn trong lúc cần thiết là một người bạn thật), câu thành ngữ này của người Mỹ rất đúng trong hoàn cảnh của ông Nhã lúc bấy giờ.
“Đó là tình bạn thật đáng quý mà người Đài Loan dành cho tôi và là kỷ niệm đáng nhớ sau gần hai năm đến Mỹ.”
Đinh Quang Anh Thái