Truyện ký Nguyễn Thị Minh Ngọc: Cỏ non biếc mãi

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Ngọc
Tranh Đinh Trường Chinh

Năm ấy, Trò còn tuổi teen, còn thầy trên dưới ba mươi. Trò từ tỉnh nhỏ vô Sài Gòn, nhưng cái đầu của Trò đã toan tính những chuyện trên trời, dưới biển, như là muốn trở ngược về thời cổ đại, hay bay tới một vì sao trong tương lai, đã luôn thấy thành phố nơi mình ở quá chật chội cho độ bay nhảy tới tầng mây thứ mấy của mình. Thầy về từ Paris, nơi Thầy đã hoàn tất mấy năm của khóa học đạo diễn phim và vài năm làm thực tập ở phim trường chỉ với vai trò đệ tam đạo diễn, nghĩa là chỉ để anh đệ nhất đạo diễn ra hiệu muốn hút thuốc hay uống cái gì đó thì anh đệ tam này phải chạy đi mua.

Trò lúc đó đã có khá nhiều anh ngấp nghé, thậm chí có cả một giáo sư đưa mẹ vào cầu hôn lúc Trò học năm cuối trung học cách đó một năm. Trò cũng đã thử yêu một anh trong số đó nhưng chuyện chẳng đâu vào đâu. Thầy thì đã có một đời vợ, một đứa con. Ngoài giờ Thầy giảng bài trên lớp, cả lớp có kéo Thầy đi cà phê thì Thầy chỉ cười cười không nói. Tới độ cả lớp nghi rằng nguyên nhân khiến gia đình của Thầy tan vỡ chính vì sự kiệm lời đến độ gần như câm của Thầy. Đám trò đố nhau, thử tưởng coi khi Thầy hẹn hò, Thầy sẽ nói gì? Chắc sẽ không lời, chỉ nhìn, cao lắm là cười. Và khi cần chia tay, chắc cũng không lời, có thể không nhìn và không cười nữa. Vậy thôi!

Kỷ niệm sâu đậm nhất giữa hai Thầy Trò là mỗi khi tan lớp, cả hai đều đứng ở trạm dừng xe bus ngay trước cổng trường, phía bên trái. Thường có một cô ghé chở Thầy bằng chiếc xe PC màu cam. Trò có chiếc xe đạp mini, nhưng giả bộ như đến trường bằng bus để có cớ đứng đó với Thầy. Tức cười nhứt là nhiều lần bus ghé trạm, không có một hành khách nào hết ngoài hai Thầy Trò, nhưng Trò nhứt định không bước lên xe, chấp nhận nghe ông tài xế thò đầu ra mắng mỏ. Ừ, mắng thì nghe, chớ ngu sao lại bỏ đi những giây phút – mà ngay lúc đó đã biết – quý báu cho cả khúc đời còn lại của mình. Khi nghe Thầy kể có người giới thiệu truyện của ông A, bà B nào đó để Thầy làm phim, cứ như có ai dán băng keo trên miệng Trò, rằng Thầy ơi, Trò cũng có truyện về Trăng, có thể hợp với phong cách của phim Thầy.

Cả đám tới nhà Thầy, căn nhà ở ngõ hẻm thuộc đường Ngô Tùng Châu, đâm xuyên qua bên Nguyễn Trãi. Thử tưởng coi, một căn đầy sách trên gác, tiếng Pháp, tiếng Anh… còn ở dưới để trống không, chỉ một bình đất nâu cao, cắm hoa lau hoang dại bạc tím. Chụp ngay vài cuốn sách mượn Thầy, giờ này, hơn nửa thế kỷ sau, Trò vẫn còn giữ. Một trong những cuốn đó là Hitchcock and Hitchcock/Truffaut with the collaboration of Helen G. Scott. Mượn để có cớ gặp lại Thầy, trong những tháng ngày xao động tháng ba, tháng tư của năm 1975. Còn gì để kể nữa, khi Thầy biến mất trong thời khắc lịch sử đó? Nhiều đứa bạn cùng lớp quả quyết, Thầy không đi đâu, mới thấy Thầy ở khu Phú Nhuận, Chi Lăng. Có đứa cãi, gặp Thầy đâu đó khu Chợ Lớn kìa. Biết Thầy là em vợ của một ông Tướng, nhưng ai cũng nói, phim của Thầy vô hại, ở lại chắc chẳng ai “giết” Thầy hay giết cái nghề làm phim của mấy thầy trò đâu.

Một tháng sau biến cố đó, ai làm gì thì làm, ngoài những việc cần thiết phụ gia đình, Trò cứ lẩn quẩn loanh quanh đạp xe khắp các quận nội ngoại thành, đến những nơi ai đó kêu có thoáng gặp Thầy, chỉ với một cái cớ cực kỳ phi lý trong hoàn cảnh đó là Trò cần trả sách. Sau một tháng, rồi cơn bệnh cuồng ảo cho một nỗi gì đó mơ-hồ-lớn-hơn-đã-mất cũng nguôi, Trò trở lại kiếp bụi, đi lang thang kết hợp mưu sinh. Thấy người quen ào ra vỉa hè, căng lều che bạt bán cà phê cóc, Trò cũng bưng thùng thuốc lá ra ngồi. Mưa, thường đốt thuốc, tự làm khách mua thuốc của chính mình. Không thấy lạnh. Chỉ thấy chắc một điều. Thế nào cũng có ngày gặp lại người đứng choán cả tuổi trẻ của mình, cái bóng không màu, đôi khi lóe ánh biếc của cỏ non tâm hồn thơ dại của mình. Phần Thầy thì chẳng biết nghĩ chi, trên cái dáng mảnh khảnh tóc phủ gáy kia, tứ thời bát tiết chỉ có hai màu, jeans xanh và chemise màu gỗ sậm.

Cũng một ngày mưa, có người chạy ngang, rủ Trò thi vô một ngôi trường nghệ thuật. Dự thí mà không tin lắm, vì đã rớt mấy cú rồi. Chẳng ngờ vào đó, gặp một Cô có dáng dấp của Thầy, khiến trỗi dậy cơn cuồng si đắm đuối với cái nghiệp ảo này, mơ mòng một ngày nào đó không xa, biết đâu Trò sẽ làm được một tác phẩm vang danh quốc tế, rồi chính Thầy sẽ là một trong những khách mộ điệu ghé chơi, như thế Trò sẽ lại được gặp Thầy trong một tình cờ không hẹn trước, ở một nơi không phải nước mình.

Cứ như vậy, Trò mải miết đi trên một con đường tưởng như vô tận. Càng đi càng thấy mình trượt dài trong một không gian nhiều chiều, đôi khi trượt ra ngoài cả vũ trụ. Trò sống, học rồi hành, cứ như là trong một giấc mơ, đến độ nhiều người đặt cho trò cái biệt danh “Xúy Vân giả dại”. Trò chẳng biết mình dại giả hay dại thật nhưng đôi khi hệt người mộng du, bừng tỉnh, thấy mình đứng ngay mỏm vực chênh vênh, Trò cảm nhận được niềm vui còn được sống. Có những lúc quên bẵng Thầy, cắm đầu mà bước tới, không biết mình có lúc khác gì một ả cái bang. Một lần đến phi trường của một nước vùng Đông Á, anh bạn từ London đến để cùng dự liên hoan hội thảo đó kêu, nhìn thấy một đứa có gần chục túi cùng bị gậy, tao biết ngay chỉ thể là mày: Ngu-Uyển Việt Nam (tức Nguyễn-khùng, Trò của Thầy)! Lại có những lúc tưởng như không liên quan gì đến, lại thấy Thầy hiện ra lồng lộng. Như buổi chiều tháp tùng nhóm học trò của thầy Hạ qua Phá Tam Giang, ghé chùa Thánh Duyên rồi đằm mình vào biển Túy Vân. Ai rồi cũng chán biển lên bờ, chỉ Trò cứ muốn ở lâu hơn nữa, tưởng như nước biển của vùng Phá nhỏ xíu này sẽ lan mãi, lan mãi tới cái thành phố cũng cận kề bờ kia của đại dương mang tên Thái Bình để kêu Thầy đợi thêm xí nữa.

Xí nữa là vài năm sau đó, sau khi đi lòng vòng một số nước của các Châu Úc, Âu, Đông và Nam Á, rồi cũng tới ngày Trò trôi sang xứ Cờ Hoa của Thầy. Cái xứ có mấy chục tiểu bang, trong đó có vài tiểu bang to hơn cả nước Việt; nhưng lúc ấy đã sang đầu thế kỷ 20, ai cũng kêu muốn tìm nhau không khó, huống chi đó là Thầy, cho dù giờ thì chẳng còn gắn với tên của phu nhân một ông Tướng – mà từ xưa, có bao giờ Trò muốn gắn tên Thầy vào đó đâu, bởi dưới mắt Trò, tài năng của Thầy độc lập với mọi thứ đính kèm… Sau này mới biết, nhiều người bạn không muốn cho Trò gặp Thầy. Có lẽ họ nghĩ đời Thầy đã đóng. Còn Trò tuy lỡ làng, lướt nửa chừng Xuân xanh, trôi về cuối Hạ đỏ, chuyển vàng Thu phai… liệu ích gì một tao ngộ khi biết trước rồi cũng sẽ dẫn về một nơi vô tăm tích?!

Nghĩ vậy là sai, vì Thầy hơn cả một chữ Thầy, như đã nói, đó là Một-Nỗi-Mơ-Hồ-Lớn-Lao-Đã-Mất, khi mọi căn cơ vốn đã cắm sâu vào Nỗi Mơ Hồ đó, thì chính Nỗi Mơ nọ lại là dưỡng khí cho cây cỏ non xanh của Kiếp Sống này. Có ai điên dại mộng tưởng như Trò, ngay sau một tháng để tang, Trò kiếm được tấm hình của Thầy đăng trên một tạp chí điện ảnh, cạnh đó có trích một câu bình giễu cợt cuốn phim đậm chất duy mỹ và đánh đố khán giả của Thầy: “Thay vì mua vé xem phim H.M., thà ở nhà chơi ô chữ đỡ nhức đầu hơn”. Trong một chuyến đi buôn ra tới xứ Huế bỏ mặc những lời khuyến dụ: “… nên ra đây sống, dễ nổi hơn”, Trò đưa tấm hình đó của Thầy cho một tiệm họa chân dung đen trắng ở góc phố Phan Bội Châu. Cô bạn có cha trước làm trưởng ga Huế cười khi đổi cho chiếc áo nâu cho Trò, làm gì như Kiều Nguyệt Nga họa hình người họ Lục “giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha” vậy? Không kể thêm những tấm postcard nhặt đâu đó dọc đường, Trò thường ghi những dòng để kể cho người Thầy áo nâu những trăn trở khi theo nghề, đôi khi đuối sức giữa gió bão đời quật, tưởng phải buông tay khi cũng mỏi lòng son.

Trong bóng nhòa mịt mùng của đại dương ngăn lấp, có lần một sản phẩm của Thầy dội về chấn động giới làm nghề. Nó như giọt nước rơi xuống miếng đất khô hạn của một nơi tưởng như có nhiều thứ nhưng thật ra thiếu vắng những chân trời bởi những rào chắn vô hình. Nhưng đó vẫn là sản phẩm chớ chưa là tác phẩm. Trò biết Thầy cũng khó khăn biết bao để có thể thực hiện thành sự thật những giấc mơ. Phần Trò, đời rồi cũng trôi, người rồi cũng qua. Thỉnh thoảng cũng có lúc tưởng là có đủ hưng phấn sáng tác, tưởng là yêu, thậm chí nhiều lần suýt cưới, nhưng rồi có vẻ như một kẻ quá yêu mình, thấy uổng đời nếu ghép ta với cái gì hay người nào đó, dù chỉ là cây cỏ cho những hàm chó vó ngựa chỉ uy dũng vỏ ngoài, còn ẩn bên trong là những cầu an, thậm chí ít nhiều hèn run nhát sợ. Đã nhiều lần sắm áo cưới, đã bấy nhiêu lần buông khi thấy tại sao phải làm vậy, một khi mình đã đủ cho mình. Có lần định nhắm mắt ưng đại một nghệ sĩ cực kỳ nổi tiếng, danh đó không chỉ vì tài nghệ mà còn vì khả năng “sát gái”. Có cô bạn làm cho một tạp chí, mừng chộp đăng tin như một đám cưới sắp tới nơi. Mà tới sát rồi chớ còn gì. Mẹ của anh ta đã từ miền Trung đi vào Sài gòn gặp người Mẹ già của Trò chuẩn bị đi coi ngày giờ lành tốt. Cái cảm giác sai sai – cuộc hạnh phúc này không phải dành cho mình – đã được khẳng định khi người xem tử vi phán, không được tổ chức lễ thành hôn mà phải né tránh ngay, cứ về ăn ở với nhau đại, vì có lễ sẽ kéo theo đại tang. Được lời như mở tấc lòng, Trò đào thoát ngay khỏi một trò chơi dại, rồi ép cô bạn kia đăng tiếp ngay tin Trò đã chia tay với anh chàng nghệ sĩ kia.

Những cái gọi là tác phẩm sau đó cứ nối tiếp ra đời, rất tình cờ, và cũng rất ngẫu nhiên, có cái gọi là thành công, cũng không thiếu thất bại.  Trò như một xuân nữ, bị lôi tuột đi khi đang vun trồng cây cỏ, ngó sắc màu còn xanh đó, nhưng như trong hội ngộ đã có mầm chia ly, thấy trước đời mình trôi qua đông tàn, hạ tận, thu phai, rồi cũng sẽ vòng lại xuân thôi cho cỏ lại biếc non… Chợt hiểu ra, a, tại sao cái điệu hát được mang tên là Xuân Nữ lại có thể áo não như vậy. Xuân Nữ không có nghĩa là trinh nữ, nên có lúc những người bạn cười Trò, biết mày là đứa sống một mình, nhưng luôn cảm giác như có tới mười đứa con khóc đói đang đợi mày ở nhà. Sống như vậy có thể gọi là sống không? đôi khi Trò tự hỏi. Đó là chưa kể không phải đứa nào cũng suôn sẻ ra đời. Có đứa phải cắt bớt một ngón tay, đứa bớt chút vành tai, cánh mũi… thậm chí có nhiều đứa còn nằm im trong bóng tối như người hoài thai nó.

Rất không ngờ, chính một trong những đứa con – hay gọi văn vẻ hơn là “tác phẩm” – mà Trò soạn cùng với một đạo diễn phim, đã giúp cho, ba mươi hai năm sau ngày Trò “mơ mòng một ngày nào đó không xa, biết đâu Trò sẽ làm được một tác phẩm vang danh quốc tế, rồi chính Thầy sẽ là một trong những khách mộ điệu ghé chơi, như thế Trò sẽ lại được gặp Thầy trong một tình cờ không hẹn trước, ở một nơi không phải nước mình”, trở thành sự thật. Trò chính thức được đứng cạnh Thầy. Cái khoảng cách cũng mong manh như trước đó ba mươi hai năm, hai Thầy Trò đứng ở trạm dừng xe bus ngay trước cổng trường của Đại Học Tri Hành, phía bên trái; nhứt định không lên, thà lì mặt nghe ông tài xế thò đầu ra mắng mỏ, còn hơn phải bỏ những giây phút quý báu cho cả khúc đời còn lại của mình. Lúc ấy Trò đã lập gia đình được vài năm, ở cái tuổi trên ngũ thập tri thiên mệnh.

Ba mươi hai năm, đủ để Trò ngộ ra câu kinh trong Ma-thi-ơ-7:7-11 hóa ra đơn giản vô cùng: Hãy xin, sẽ được, hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ, cửa sẽ mở cho…Ngay giây phút cảm được sự linh diệu của niềm tin và lòng hy vọng, Trò đã tự hỏi phải chăng từ đây mình sẽ tắt mọi nguồn thơ để tiếp tục sáng tạo những đứa con tinh thần. Hóa ra những ngày tháng kế rồi cho thấy, phần nào cỏ non cứ biếc, phần nào hoa đá cứ lạnh, phần nào hở miệng vết thương ngày cũ cứ đau. Sau lần tao ngộ đó, thêm vài tác phẩm nữa giúp Trò lại được đứng cạnh Thầy, trong đó có cả phim chuyển từ truyện ngắn viết về Vầng Trăng Máu của Trò mà cách đó mấy chục năm, Trò đã từng định giới thiệu với Thầy. Một lần vợ chồng Thầy và vợ chồng Trò cùng gặp, mới nghe được từ Thầy – dù đã biết trước – rằng để kiếm được giờ sống với cơn mộng ảo đời mình – chớ chưa dám gọi là làm nghệ thuật – dù ở nơi nào trên trái đất, cũng rất đỗi nghiệt ngã trầm kha.

Rồi Thầy ra đi, chuyến đi vĩnh quyết! Trước đó, Thầy đã dặn, nếu tôi có vướng nan y thì tuyệt đối không được cãi mệnh mà chạy chữa. Đó là những gì Trò nghe được từ cô Nguyệt Kiều, minh tinh trong cuốn phim H.M. của Thầy, mà theo một khán giả thời trước 1975 thì: “Thay vì mua vé xem phim H.M., thà ở nhà chơi ô chữ đỡ nhức đầu hơn”. Cô Kiều vừa cho xuất bản cuốn hồi ký về mình như một nghệ sĩ lưu vong. Trước đó, cô cũng nhiều lần về nước đóng phim và làm từ thiện. Cô và Trò đã cùng xuất hiện trong một cuốn phim của một đạo diễn Việt kiều trẻ, dựa theo một số truyện ngắn của Trò, nhưng toàn phim thấm đẫm phong cách của Thầy.

Giờ Thầy mất đã vài năm, Trò tóc đã phau phau màu tuyết, khi bới tro của thời gian – như Ashes of Time của Wong Kar-Wai – tìm ra được những mầm cỏ dưới tuyết đông, rưng rưng thấy màu vẫn non biếc, nhưng vẫn không quên, đây không phải là câu chuyện về một tâm cảm ảo với một người Thầy, mà hơn cả một chữ Thầy. Đó là Một-Nỗi-Mơ-Hồ-Lớn-Lao-Đã-Mất, khi mọi căn cơ vốn đã cắm sâu vào Nỗi Mơ Hồ đó, thì chính Nỗi Mơ nọ lại là dưỡng khí cho cây cỏ non xanh của Kiếp Sống này.

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Có thể bạn cũng quan tâm