Trần Quí Phiệt: Đi tìm thời gian đã mất (Phần 1)

Tác giả: Thế Kỷ Mới

Hình minh họa: AI-generated.

Trên chiếc xe thuê Toyota tám chỗ ngồi chúng tôi lên đường đi Đồng Hới trên Quốc lộ 1. (Xe hiệu Nhật rất thông dụng tại Việt Nam vì ít tốn xăng và dễ bảo trì.) Ngoài vợ chồng tôi còn có chị Thúy và Hương, cháu gái của Nga. Trên đường chúng tôi dừng lại ở một ngôi chùa đón một vị sư đi theo để làm lễ cầu siêu tại nghĩa trang với những phần mộ gió do em tôi lập sau 1975 ở Quảng Bình. Để cho chúng tôi thưởng thức thời tiết mát mẻ trước khi trở nên nóng bức vào giữa trưa, Duy, tài xế của chúng tôi, cho cửa xe xuống và, có lẽ vì biết chúng tôi là Việt kiều và dân miền Nam, Duy vặn một ít nhạc hay miền Nam nay bị cấm lưu hành. Nhìn thấy Duy vào tuổi đến trường nhưng đi làm thay vì đi học, nghe giọng miền Nam cũng như thấy cậu ấy thích nhạc “ngụy đồi trụy,” tôi đoán gia đình Duy gốc miền Nam thuộc giai cấp nghèo.

Xe chúng tôi lướt nhẹ trên quốc lộ, một luồng gió mát rượi lùa vào xe qua cửa sổ chỗ tôi ngồi. Tôi nhắm mắt thưởng thức cảm giác tuyệt vời, quen thuộc tôi đã từng cảm thấy khoảng bốn mươi năm trước khi đi tàu hỏa với cha tôi từ Dalat về Quảng Bình. Ngọn gió nam (tôi chắc đó là gió nam vì xe chúng tôi ngược về hướng bắc) ở miền nhiệt đới trong buổi sớm mai thật là một diễm phúc hiếm có. Chúng ta thấy mát lại sau một đêm oi bức ở thành phố lớn, cảm thấy sảng khoái với mùi thơm hoa cỏ và mùi đất mới cày xới sẵn sàng cho mùa gieo mạ mới. Chúng ta đi vào giấc ngủ nhẹ và đồng thời cảm thấy tỉnh thức và sảng khoái được tiếp xúc với sức mạnh chữa lành của thiên nhiên trên quê hương của mình. Trong ánh sáng lờ mờ của những giờ phút sớm sủa và sự yên ắng, tĩnh lặng của mặt đất, xe chúng tôi lướt êm nhẹ, đưa tôi về một khỏang thời gian nào đó trong miền quá khứ xa xăm, chưa có lịch sử ở đó chúng ta đã sinh ra trước khi đánh mất ngây thơ vì trải qua đau khổ và buồn rầu. Trong tình trạng nửa tỉnh thức tôi bồng bềnh, dường như mọc cánh. Tôi cảm thấy như một nhân vật trong tác phẩm The Time Machine của H. G. Wells, chỉ khác là các thế giới, thời kỳ và dân tộc cổ xưa nhân vật của Wells nhìn thấy nhưng không hòa mình được còn trong cuộc hành trình qua giấc mơ của tôi hôm nay tôi phục hồi được thời kỳ hạnh phúc của tuổi thơ, tìm lại được những khuôn mặt dấu yêu của những người tôi thương quí, nghe lại những giọng nói và âm thanh ngày cũ. Đây là nơi tôi sinh ra, là quê hương, dân tộc và quá khứ của tôi. Tôi được hồi sinh trở lại, cả thân thể và linh hồn ốm đau của tôi đều được chữa lành.

Vốn yêu thích thiên nhiên, có đôi lần tôi lên xe buýt của hãng Greyhound đi du lịch vòng quanh nước Mỹ để xem thiên nhiên trông như thế nào ở một quốc gia được gọi là Mỹ quốc (đất nước đẹp đẽ). Phải, Mỹ là quốc gia đẹp nhất tôi đã từng biết. Nhưng bên trong chiếc xe kín mít và qua cánh cửa sổ bằng kính phong cảnh nước Mỹ đối với tôi giống như một cuốn phim câm kéo dài một phía vô tận, không thay đổi, và buồn chán. Hoàn toàn bít kín với thế giới bên ngoài và với chiếc xe nhẹ lướt trên mặt đường không một tiếng động, người hành khách mơ ngủ cảm thấy như đang du hành ngoài không gian hơn là trên quả đất. Im lặng được áp dụng như là một luật lệ bắt buộc. Im lặng không những trên xe buýt ở đó mọi người như đang ngủ ngoại trừ tài xế thỉnh thoảng phát ngôn một thông báo, mà còn ở các trạm đến và đi lúc hành khách xuống xe mua thức ăn và nước uống. Mọi người yên lặng như những hồn ma. Đi du lịch như thế này tôi bỗng nhớ những cảnh ồn ào, vô trật tự rất phổ thông ở quê nhà mỗi khi xe đò hay tàu hỏa đến. Hành khách dành nhau xuống xe hay tàu la hét bọn trẻ con sợ chúng bị lạc, người bán hàng rong rao hết cả hơi hàng cần bán, còi tàu liên tiếp thổi báo hiệu tiếp tục cuộc hành trình, tất cả cho chỉ dấu rằng thế giới Việt Nam nhỏ bé nhưng đầy sự sống và năng lực. Tôi phải về thế giới ấy để được an ủi vì thế giới Mỹ này quá lớn, quá lạnh đối với một tâm hồn mệt mỏi và đau đớn như tâm hồn tôi.

Duy chơi một ít nhạc rất phổ thông ở miền Nam trước 1975 và hát theo nho nhỏ. Trước khi rời nhà sang Mỹ tôi chưa bao giờ để ý những bài hát đó vì tôi không có thời giờ để thưởng thức và bởi vì, vốn thích nhạc cổ điển Tây phương, tôi thấy nhạc Việt nói chung quá ủy mị. Nhưng nghe lại lần này trong cuộc hành trình về quê nhà khiến tôi say đắm. Bởi vì quá khứ đã mất, bất cứ cái gì còn lại và có thể giúp tôi nhớ lại quá khứ đều trở nên quan trọng đối với tôi. Những thứ như âm nhạc của Duy, sự tiếp xúc của tôi với không khí và đất đai của quê hương tôi trong buổi sáng tinh sương của ngày đầu tiên về quê nhà giúp tôi sống lại một quá khứ mất đã lâu hay bị lãng quên. Trong thế giới nhỏ bé ở đây tôi có thể tưởng tượng một mô hình thu hẹp của nước Việt Nam Cộng hòa ngày trước lẽ ra tôi đã trở về để thực hiện giấc mơ của tôi. Thế giới tôi sống sáng nay nhỏ bé, dễ vỡ, và không tồn tại lâu dài vì chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng của tôi. Tuy nhiên, thế giới này an toàn, chắc chắn và là đối tượng sự đi tìm của tôi hôm nay.

Duy giảm tốc lực khi xe leo một ngọn đèo uốn lượn. Trời vẫn còn tối. Một giọng ngái ngủ hỏi tài xế bây giờ ở đâu. “Đèo Rù Rì” có tiếng trả lời. Âm nhạc đã ngừng. Tất cả đều yên lặng trong bóng tối ngoại trừ sự di chuyển đều đều êm ái của chiếc xe như sự di chuyển của tàu hỏa. Những giọng nói nghe nhỏ nhẹ, mỏng manh, mơ hồ hình như phát ra từ vô thức của người đang ngủ say. Chiếc xe tiếp tục lao vào bóng tối, nhận chìm anh ta vào quá khứ xa xăm và lịch sử sâu thẳm của đất nước anh. Trong chiến tranh Đông Dương cha anh liều mạng sống vào miền Nam trong lúc chiến sự diễn ra dữ dội để tìm gia đình anh. Chính tại chỗ này cậu bé mưởi tuổi theo cha về Quảng Bình trên chiếc tàu đêm sau khi mắt đẫm lệ từ biệt mẹ cậu. Những cuộc không kích của phi cơ đồng minh chống lại Việt Minh xảy ra thường xuyên nên tàu chỉ chạy vào ban đêm. Thế nhưng, thỉnh thoảng tàu vẫn bị oanh tạc và thương vong của thường dân rất cao. Với thời gian ngọn Đèo này được gọi là “miền đất chết” vì có báo cáo rằng nhiều hồn ma xuất hiện ở đây. Cuộc chinh phục đẫm máu nhất nước Chiêm Thành, đánh dấu sự bắt đầu chính sách bành trướng tàn bạo của đế quốc Đại Việt, nguyên thủy khởi sự tại Đèo Rù Rì. Tiếng kèn thắng trận, tiếng vó ngựa phi trong trận xung kích vào kinh đô Đồ Bàn, hàng phòng vệ sau cùng của Chiêm Thành, anh ta vẫn còn nghe trong giấc ngủ. Trong bối cảnh của khói lửa và những ngọn cờ tơi tả in đậm hình ảnh của chết chóc và hủy diệt. Sự sụp đổ của kinh đô Chiêm Thành khiến ta nhớ lại sự triệt hạ thành Troy thi hào Homer mô tả trong hùng ca Iliad : kinh đô bị cướp bóc, tù binh bị tàn sát, trẻ con bị giật khỏi tay mẹ chúng và ném ra khỏi thành, phụ nữ bị đưa ra Đại Việt để làm nô lệ trong gia đình kẻ chiến thắng. Mỵ Ê, vị hoàng hậu của vua Chiêm, được lệnh đánh đàn giúp vui cho vua Lý Thánh Tông và các tướng của ngài. Khi nàng được lệnh chuốc rượu cho vua nước thắng trận trên chiến thuyền, Mỵ Ê nhảy xuống sông tự trầm. Câu chuyện đau thương của Mỵ Ê đi vào kho tàng truyền thống dân gian như là vinh danh gương tiết liệt của phụ nữ và kết án sự độc ác của nam giới. Kể từ lúc bắt các cung nhân Chiêm Thành các nhà quyền quí Việt Nam học được những khúc hát ai oán, một dòng nhạc lâm ly đã trôi chảy vào âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Những khúc ca Huế đều buồn bã, áo não nghe như tiếng than khóc của một góa phụ, diễn tả đau buồn và báo hiệu những chuyện thảm sầu. Cuộc tàn phá kinh đô của Chiêm Thành trở về với cố đô Huế và ám ảnh người dân Huế. Người Chàm trở lại và sự trả thù của họ đối với con cháu những kẻ đã chiến thắng họ ngay chỗ hoàng hậu của tổ tiên họ bị sỉ nhục trăm lần ghê gớm hơn sự chinh phục quốc gia họ vào năm 1471. Cuộc tấn công vào mùa xuân năm 1968 làm thành phố Huế điêu tàn. Trời mưa không ngừng, lạnh lẽo và thê lương trong khi cách đây một năm vào tháng này cảnh vật xinh tươi, đẹp đẽ. Trong đêm tối lạnh lẽo trước họng súng của những kẻ bắt người, những binh sĩ miền Nam đang nghỉ Tết với gia đình, những công chức, sinh viên, dân sự bị bắt buộc tiến về những nấm mồ đào sơ sài của họ. Trong đêm tối và mưa dầm lạnh lẽo những người bị bắt tựa vào nhau, mệt mỏi lê bước vào chỗ chết. Thời tiết tiếp tục lạnh lẽo, thê lương, buồn bã, mây mù u ám trong nhiều tuần nữa cho đến khi những nấm mồ tập thể của các nạn nhân bị giết được thân nhân tình cờ tìm thấy. Thời tiết lạnh lẽo khiến thi hài những người chết không bị thối rữa, nhưng cơn mưa lạnh không ngừng làm cho đời sống càng thê thảm. Nhiều người mất tích vẫn chưa về và bị nghi là không còn nữa, do đó hàng đêm thành phố sáng rực với ánh hương đèn đốt lên để an ủi những vong hồn lưu lạc. Người ta có thể nghe những tiếng than khóc âm thanh cao, dài, não nuột vào ban đêm và không biết đó là những phụ nữ thương khóc chồng, hay tiếng gió hú trong đêm mưa gió lạnh, một điều bất thường vào lúc này ở thành phố này, bất thường đến độ người dân Huế tin rằng Trời Đất cũng để tang. Tiếng than khóc chợt có, chợt ngừng, thỉnh thoảng còn không nghe được có lẽ bởi vì người than khóc kiệt sức, bởi vì tiếng gió đứt đoạn, hay bởi vì tiếng than khóc đến từ cõi xa xăm của người chết, nhưng suốt đêm tiếng than khóc không bao giờ ngừng. Không ngừng cho đến hừng đông khi sự để tang được lấn át bởi tiếng ồn ào của ban ngày, hay có lẽ bởi vì hồn người chết được tin là rút lui khi bình minh đến. “Người chết,” Cha thường nói, “rất cô đơn.”Giống như những kẻ lưu vong, người chết cô đơn và lưu luyến vào người thân mà họ phải cách biệt muôn đời. Bởi vì họ chết oan và chết yểu (nhiều người trong họ bị thiệt mạng trong cuộc chiến lâu dài và bạo tàn trước khi họ hoàn thành được tâm nguyện), linh hồn những người chết trẻ này không nơi nương tựa và phiêu bạt khắp nơi. Chỉ bằng cách tưởng nhớ đến họ, chúng ta mới có thể làm cho họ dịu bớt nỗi u buồn. Không phải những ánh sáng le lói trong đêm tối có nghĩa là người chết vẫn còn bám víu vào quê hương cũ của họ, đang đi tìm một cách tuyệt vọng một mái nhà bên kia nấm mồ, và cố gắng giúp ta giữ được niềm thương nhớ đối với những người đã chết hay sao? Nhưng làm sao họ (người chết) thành công khi họ không còn quan trọng đối với những người sống như chúng ta, khi vì quá quan tâm đến cuộc sống chúng ta thà quên hơn là nhớ những người không còn nữa? Cha tôi nói rằng người chết trở thành “cô hồn”bởi vì họ cô đơn, không ai nhớ và nghĩ đến họ, thắp một nén nhang cho họ. Bởi vì có liên hệ đến một lịch sử lâu dài của chinh phục lãnh thổ, nội chiến, và tranh đấu chống ngoại xâm, Việt Nam đã chứng kiến nhiều cái chết oan khiên cho đến ngày nay vẫn không được thừa nhận hay bị lãng quên. Để tang, nếu có được, chỉ được thực hiện bí mật trong phạm vi gia đình bởi vì tưởng nhớ công cộng những người đã chết bên bại cuộc bị những người thắng trận cấm đoán.

Chiến tranh. Tranh Nguyễn Trọng Khôi

Xuất hiện giữa đám người chết là nạn nhân của cuộc tàn sát gần đây và nhũng cuộc chiến trong quá khứ, kể cả những chiến binh miền Bắc gởi vào miền Nam để chiến đấu và bị tử trận (trong đó có những đặc công Việt cộng trong những hố cá nhân ở đồn cảnh sát gần cầu Trường Tiền ở Huế). Người chết không xuất hiện riêng nhưng hòa mình với nhau dường như sự gần gũi, thông cảm lẫn nhau có thể làm giảm nỗi cô đơn của họ, hay hình như chia rẽ, dấu hiệu của phân biệt giữa người sống, không phải là điều họ quan tâm nữa. Tất cả uể oải lê bước như còn trong cơn mê, khuôn mặt nhợt nhạt hốc hác, mắt nhắm nghiền, miệng méo xệch dường như bị xâu xé bởi một nỗi xót xa đau đớn, không phải bởi giận dữ, hận thù như lúc họ còn sống. Mọi hồn ma đều buồn rầu vô hạn, kể cả những kẻ tham dự vào cuộc tàn sát Tết Mậu Thân và những kẻ bỏ mình trong cuộc tấn công mùa xuân năm 1975. Mọi hồn ma trông đau khổ đến cùng cực. Mọi hồn ma—nạn nhân và kẻ hành hạ, bạn và thù, những kẻ chết oan—đều gặp định mệnh do một lời nguyền rủa huyền bí nào đó trên bản thân họ, trên đất nước và dân tộc họ vì những tội tiền nhân đã phạm trong quá khứ xa xưa. Người chết đau khổ vô cùng tận. Họ sẽ không được yên nghỉ cho đến khi nắm xương tàn của họ được tìm thấy, qui tụ và mai táng đàng hoàng ở nghĩa trang của tổ tiên họ và cho đến khi có đàn tràng giải oan bạt độ được tổ chức và vong linh họ được đi vào một thế giới mới tốt đẹp hơn.

Trong những tàn cây rậm rạp của dãy rừng xa Đèo Rù Rì tối như bưng lập lòe những ánh đèn ma di động. Sau cuộc thảm sát, dân chúng của cựu vương quốc Chiêm Thành trở thành Ma Hời lang thang trên vùng đất thuộc về họ trong quá khứ. Ma Hời không quên quê hương của họ và cũng không quên dùng quyền lực siêu nhiên để trả thù thường rất khủng khiếp. Ma Hời tuần tiễu Đèo Rù rì trong đêm tối và gây ra những tai nạn chết người. Trong bóng đêm họ tuần tiễu ngọn đèo quanh co đã thuộc về họ một cách hợp lý và hợp pháp. Họ lang thang trong đêm tối bởi vì họ là hồn ma và sợ ánh sáng ban ngày. Họ nguyền rũa người Việt, trừng phạt con cháu của những người Việt đã tạo ra oan khiên cho tổ tiên họ.

Những chiến sĩ trong quân đội miền Nam này đã đánh trận cuối cùng ở đây trước khi chính phủ của họ sụp đổ. Họ đã chiến đấu một cách anh dũng nhưng tuyệt vọng từ những căn cứ chiến thuật ở Cao Nguyên. Liền khi đến Quốc lộ 7 họ bị phục kích và tàn sát trong một cuộc rút quân hỗn độn nhất chưa từng có. Cuộc thoái binh hỗn loạn được biết là “rút quân đẫm lệ.Chính phủ của họ sau đó sụp đổ quá nhanh nên không có cơ hội phục hồi, thu lượm và chôn cất những người chết cho tươm tất. Giống như Ma Hời, họ trở thành những hồn ma bị bắt buộc lang thang trên chiến trường ngày xưa mỗi đêm. Mỗi đêm từ lúc kết thúc chiến tranh. Trước khi trời sáng họ tập họp để biểu diễn những lễ nghi quân cách cuối cùng—chào lá cờ miền Nam, các chiến sĩ bắn những phát súng không nổ, mọi người (các chiến sĩ, vợ và con cái họ) câm nín, mắt đẫm lệ hát không thành tiếng quốc ca miền Nam bên cạnh những chiến xa bị đốt cháy. Rồi họ biến mất. Họ biến mất vào hư vô lúc hừng đông rồi lại xuất hiện trở lại để tiếp tục những hoạt động thường lệ vào lúc đêm tối. Giống người và vật trong một cuốn phim câm được ấn định chạy và ngừng vào một lúc nào đó mỗi đêm trên một màn ảnh lớn, tức là Đèo Rù Rì. (Không có cách gi có thể biết nguồn gốc của tên ngọn đèo này, nhưng chữ “rù rì,” có nghĩa là “thì thầm, nhủ thầm, nói nhỏ,” cắt nghĩa tại sao người chết tụ họp ở đây. Họ tụ họp ở đây để im lặng kể và kể lại mỗi ngày những câu chuyện bi thảm của họ cho đám thính giả tưởng tượng, tức là chúng tôi, những người sống, và thân nhân của họ. Người chết không bị kiểm soát bởi thời gian nhưng bị lệ thuộc vào ký ức. Những chuyện họ kể đều bi thảm, họ muốn nói về điều này, nhưng họ không thể đi quá một tiếng thì thào.) Họ đóng vai trò của họ một cách hết sức chuyên cần và chính xác dường như họ là những bù nhìn hay trò chơi của một lực lượng huyền bí vẫn còn thao túng những nạn nhân sau khi chết. Những khuôn mặt không già của họ biểu lộ một niềm đau đớn và buồn rầu không thể diễn tả được, nhưng những người đã mất đều chia xẻ chung với nhau. Đối với người chết không có nỗi đau khổ gì lớn hơn bằng nỗi đau khổ bị lãng quên bởi chúng ta, người sống, thân nhân của chính họ. Người chết được tự do khỏi thời gian nhưng bị lệ thuộc vào ký ức. Cuộc trình diễn hằng đêm những hoạt động trong quá khứ, tình trạng không đoạn tuyệt được với những gì thuộc về họ⸺những vũ khí bị gãy đổ, chiến xa bị đốt cháy, lá quốc kỳ tả tơi ⸺có nghĩa tưởng nhớ quá khứ là cách duy nhất người chết đối phó với sự lãng quên của người sống. Nỗi cô đơn của họ càng tăng thêm vì bóng tối của rừng già bao la và cơn mưa giá buốt. Bị cắt lìa khỏi Thời-Gian, số phận họ là lặng lẽ diễn lại mãi mãi trò chơi của Lịch-Sử–không phải lịch sử đang diễn tiến, đang thành hình mà là một lịch sử không hiện hữu, không còn nữa, lỗi thời, xưa cũ, lố bịch (vũ khí gãy đổ, chiến xa cháy đen, quốc kỳ rách nát) chỉ có thể tìm thấy ở bảo tàng chiến tranh của phe thắng cuộc dựng lên để chứng tỏ sự “phi chính thống” của kẻ chiến bại. Những người chết này còn chơi trò chơi Lịch-Sử bao lâu nữa khi Lịch-Sử sẽ bị lãng quên bởi những kẻ được sống sót sau trận chiến? Trong năm mươi năm nữa, giả thiết như vậy, họ còn có thể ở trong tâm hồn của thế hệ người Việt kế tiếp hầu như sẽ không biết gì về lịch sử cận đại của đất nước, chiến tranh, người chết, các đấng anh hùng? Họ (các hồn ma, người chết) sẽ bị đẩy vào vực thẳm của bóng tối, giai đoạn bắt đầu của Thời Gian, quá khứ vô cùng, lẫn lộn với các hồn ma của chiến binh thuở xa xưa, tất cả đều bị mất trong cõi vô cùng của Thời Gian hay Vô-Thời Gian. Lịch Sử, nếu có thực, bị mất hút trong cõi hư vô của Không-Thế Giới và Không-Thời Gian. Chúng ta có thể nào tưởng tượng, cấu tạo lại cuộc Nam Tiến nổi tiếng như xảy ra thực sự đã tiêu diệt đế quốc Chiêm Thành bằng những mảnh rời rạc của những tài liệu tham khảo trong các sách lịch sử? Ngay cả một biến cố kinh thiên động địa trong lịch sử hiện đại của đất nước như sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam cũng phai mờ dần trong ký ức của các chứng nhân và những kẻ sống sót và sẽ không được nghe nói đến nữa sau khi thế hệ này qua đi. Ký ức chúng ta quá yếu ớt cho một quá khứ quá dài và quá rộng khiến cho tất cả những gì tồn tại trong đó đều mất, mất vào khoảng trống không, hình như chưa bao giờ hiện hữu. Lịch sử (người chết, hồn ma, những gì thân yêu đối với họ và không tách rời khỏi họ⸺vũ khí rỉ sét, chiến xa cháy đen, quốc kỳ rách nát, cuộc diễn binh hằng đêm) lóe vào đầu kẻ lưu đày đang trở về đêm nay để rồi chìm nhanh vào hố sâu thẳm không đáy của cõi Không-Thời Gian. Trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh ngủ hẳn, kẻ lưu vong nghe tiếng đêm yên lặng, những năm tháng chết, những âm thanh không tiếng của các hồn ma diễn binh, thấy họ biểu diễn yên lặng cái gọi là trò chơi Lịch Sử trong một chốc lát nữa trước khi mọi sự tan biến, tan biến vào hư không. Kiệt sức, kẻ lưu vong mệt mỏi thức dậy theo tiếng rì rầm của động cơ xe đang chầm chậm xuống Đèo, bỏ lại đàng sau những kẻ tham dự bị bỏ quên của Lịch Sử và những nỗi buồn của họ. Tự sâu thẳm của rừng hoang có tiếng kêu của côn trùng, tiếng mưa rơi nhẹ anh ta đã nghe không nhớ từ bao giờ, có lẽ rất lâu xa trong Thời Gian, có lẽ từ lúc bắt đầu của Thời Gian. Anh ta nghe lại tiếng côn trùng, tiếng mưa rơi, sự chuyển động của trái đất. Ánh sáng mặt trời. Mọi sự đã trở lại với thời gian.

Tôi thức dậy trong âm thanh của một bản nhạc quen thuộc về miền quê Việt Nam vẳng đến từ chiếc máy hi-fi của Duy. Chúng tôi vừa mới qua hết chặng sau cùng của Đèo Rù Rì và đang tiến về Mũi Né, bờ biển nổi tiếng của miền Trung Việt Nam, với những dãy đồng lúa xanh mướt nối tiếp nhau điểm xuyết bằng những ngôi nhà nhỏ lợp mái tranh. Bình minh trên biển choáng ngợp sau một đêm dài chạy đường trường. Những chiếc thuyền trở về từ chuyến đánh cá suốt đêm nổi bật trên chân trời trong buổi sáng rực rỡ ánh mặt trời. Một dãy núi mù sương là hậu cảnh của ngọn Đèo huyền bí thê lương chúng tôi vừa vượt qua. Với đêm tối, thế giới mơ hồ, và những hồn ma của quá khứ bỏ lại sau tôi, tôi đang đi vào một thế giới mới đầy sức sống.

Đời sống ở thôn quê bắt đầu thực sự rất sớm. Mới năm giờ rưỡi trong miền nhiệt đới này những người nông dân đã bắt đầu ngày mới của họ. Những nhóm nhỏ rải rác dọc theo Quốc lộ 1 đi về hướng đồng ruộng của họ với một thái độ nhàn nhã vô tư, tay dắt những con trâu, những người bạn thiết yếu của nông dân, di chuyển chậm chạp theo chân họ. Chừng nửa giờ sau, quang cảnh thanh bình linh động hẳn lên với đám thiếu nhi trên đường đến trường. Chúng mang quần xanh áo trắng, một vài đứa quàng khăn đỏ, dấu hiệu ngoan ngoãn, học giỏi. Chúng mang dép nhựa thay vì giày, một số đi chân không. Bởi vì trẻ em ở miền quê nghèo và phải giúp đỡ cha mẹ chúng làm công việc đồng áng sau khi bãi trường, thường chúng không có giày và quần áo tốt. Chúng trông nhỏ người so với tuổi của chúng, có lẽ bởi vì gia đình nghèo và thiếu dinh dưỡng. Nhưng toát ra từ chúng linh hoạt và vui tươi nhí nhảnh, đặc tính của tuổi thơ.

Lòng tôi bỗng thắt lại một nỗi đau. Nỗi đau dường như đến từ một miền đất và thời gian xa xăm ở miền quê Quảng Bình. Tôi cảm thấy thắt ruột, đau đớn nhưng êm ái khi nhận biết rằng tôi một trong những đứa trẻ ấy, khuôn mặt tôi là một trong những khuôn mặt chúng, số phận tôi cùng chung với số phận chúng. Tôi không bị mất, không bao giờ bị mất. Không có chỗ nào bị tàn phá nạng nề bằng thôn quê, một vùng xung kích tự do, trong chiến tranh, nhưng không chỗ nào có thể chứng minh khả năng chiến thắng tàn phá và chết chóc cũng như ý chí sinh tồn bằng thôn quê. Quyền lực này người nông dân có được từ đất đai nơi họ cư trú và gắn bó không ngừng từ ngàn xưa. Về phần tôi, tôi thấy bản thân không thể tách rời khỏi vùng đất này, vùng đất, như sợi dây rốn, vẫn còn buộc chặt tôi với gốc rễ và quá khứ và là động lực cho kiếp sống vong của tôi.

Trần Quí Phiệt

_____

*Trích dịch từ nguyên tác In Search of Lost Time: A Literary Review by a Vietnamese American Scholar (Mandorla Books, 2024).

Bài viết cùng tác giả:

Có thể bạn cũng quan tâm