Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ Qua Đời (17/02/1923 – 14/10/2025)

Tác giả: Tạp Chí Thế Kỷ Mới
Hình từ trang nhà Doãn Quốc Sỹ

Như một chiếc lá mùa thu đẹp nhất còn sót lại trên cây, sáng nay, chiếc lá ấy đã chao nghiêng trong gió thu rơi xuống.

Sự ra đi của nhà văn Doãn Quốc Sỹ không làm chúng ta ngạc nhiên. Ông đã tới, đã ở lại với chúng một thời gian khá dài. Chúng ta, những độc giả của ông, học trò của ông và những người bạn đồng trang lứa với ông đã được hưởng bao nhiêu ân huệ tốt đẹp từ con người này.

 Ông là một hồ nước trong veo cho bao nhiêu người soi bóng: Từ học trò, bằng hữu cho đến độc giả, những người biết ông, đọc những tác phẩm của ông, đã nhận được bao điều tốt đẹp như kim chỉ nam trong đời sống. Khi cuộc sống tinh thần bị đảo lộn trong cơn lốc nội chiến của đất nước, dù bị bắt vào tù, dù sống ở ngoài một xã hội đạo đức bị lật ngược, ông vẫn giữ được tiết tháo của một nhà văn “Uy vũ bất năng khuất”

Ông đã sống, đã viết và đã để lại cho những người Việt lưu vong một tấm gương trong veo của đạo dức và tinh thần bất khuất của một người Việt cầm bút theo đúng nghĩa nhất.

 Tạp chí Thế Kỷ Mới và Ban Biên Tập xin nghiêng mình trước vong linh Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ và phân ưu cùng tang quyến.

………

Trong bài “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều Và Tôi”, nhà thơ Trần Mộng Tú tâm sự:
“Khi qua tuổi lên 10, bước vào trung học, xen kẽ với những sách dịch từ những tác phẩm ngoại ngữ nổi tiếng như “Chiến Tranh và Hòa Bình,” “Đỉnh Gió Hú,” “Giã Từ Vũ Khí,” “Anh Em Nhà Karamazov”… thì những tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ là những cuốn sách luôn luôn cha mẹ tôi tìm thấy trên giường, trên ghế, trên kệ, trên bàn ăn, trên bàn học của tôi và đôi khi trong bếp. Những tác phẩm này đã đóng vai trò “phụ thân thứ hai” trong đời sống trưởng thành của tôi. Những trang sách văn chương trong sáng, trung hậu đã dạy tôi những điều nhân nghĩa, ngay thẳng và đạo làm người. Tôi chắc chắn là những ai đã từng đọc Doãn Quốc Sỹ cũng được hưởng cái tinh thần đạo đức trong từng câu văn của tác giả. Tôi không may mắn là học trò trực tiếp của thầy Sỹ, nhưng tôi là học trò trong mỗi tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

… Nhờ có Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều và những tác phẩm trung hậu, đạo đức tràn đầy lý tưởng khác của Doãn Quốc Sỹ mà trong suốt mấy chục năm cầm bút tôi vẫn giữ được cái tâm trong sáng, cái tâm lành ở mỗi chữ mình viết xuống.”…

Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ- Đi bộ trong sáng Thu 2022.
Hình nhà thơ Trần Mộng Tú cung cấp.

Chỉ mới mấy năm trước, gia đình bạn bè thân hữu còn mừng sinh nhật 100 tuổi thọ của ông. Nhân dịp này, nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tặng ông bài thơ “Tóc Trắng và con đường mùa Thu”:

Tóc Ta trắng và lá Thu màu đỏ
Bầu trời trên cao mây nhẹ nhàng bay
Lưng vẫn thẳng Ta chẳng cần gậy chống
Một trăm năm coi nhẹ như một ngày

Ta vẫn một tâm Gìn Vàng Giữ Ngọc
Dòng Sông ơi Định Mệnh chảy về đâu
Khu Rừng Lau xạc xào trong trí nhớ
Gió từ đâu thổi tạt tới phương này

Ở trước mặt có hàng cây lá đỏ
Một mình ta đi hết một con đường
Có ai đợi ở cuối đường không nhỉ
Nỗi Sầu nào coi cũng nhẹ như Mây

Cũng nhân sinh nhật thứ 100 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, trong bài “Doãn Quốc Sỹ: Thế Đấy” đăng trên blog VOA, nhà văn Ngô Nhân Dụng viết:

….. Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.

….. Doãn Quốc Sỹ hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị lay động vì hoàn cảnh. Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, không cần phải cố gắng.

Trong cuộc sống hàng ngày không biết ông tọa thiền lúc nào. Doãn Quốc Sỹ không báo trước khi ngồi xuống: “Tôi tập thiền đây;” hay là khi đứng dậy “Tôi ngồi thiền xong rồi.” Mỗi giờ phút trong đời sống của ông thể hiện một quá trình thiền tập. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, cởi dép, uống nước, nói năng, hầu như lúc nào ông cũng làm chủ thân và tâm. Đối cảnh, đứng trước cảnh ngộ biến đổi cách nào ông cũng có thể thốt lên một câu: “Thế Đấy!”

Con gái nhà văn Doãn Quốc Sỹ, bà Doãn Cẩm Liên cũng nhận xét về bố như vậy trong bài “Trăm tuổi hạc bố Sỹ”:

…”Người ta vẫn thường nói Thân – Tâm gắn liền nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Do vậy, ông Sỹ đã có một thân khỏe mạnh thì tâm của ông cũng được khỏe lây. Có ai đặt câu hỏi “tâm phải an trước rồi mới có thân khỏe không?” Câu hỏi này người viết cũng đã từng hỏi, nhưng không có câu trả lời chính xác. Chỉ lấy kinh sách Phật ra thì thấy nó đồng hành và không tách biệt. Không trước, không sau.

Tâm ông Sỹ đã từ lâu, dường như không còn “Tham, Sân, Si, Hận” gì cả. Ngay từ thuở trong tù cộng sản, hai lần tù, cũng không ai nghe ông thù ghét mấy người quản giáo. Ông Sỹ đã từng nói trong sách hay trong câu chuyện với mọi người “Mình bị tù còn có ngày về, chứ mấy người quản giáo này họ cứ phải gắn liền với nhà tù thì chẳng khác gì tù!” Vợ con những ngày sau này chớ hề nghe một chuyện gì về chồng và bố lúc ở tù. Có chăng chỉ nghe vài mẩu chuyện từ các bạn tù của ông mà thôi.

Tâm ông Sỹ nay không có gì có thể làm nó gợn sóng lên được. Ngay cả cái vui ông cũng không vui quá thì lấy đâu cái buồn có cơ hội làm gợn lòng của ông?!…”

Sống nhẹ nhàng, và đến lúc ra đi ông cũng nhẹ nhàng bước ra khỏi thế giới này.

Vĩnh biệt nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

***


Tiểu Sử: (Theo trang nhà của Doãn Quốc Sỹ)

Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17/02/1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quí Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội.

Thuở còn là thanh niên, ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt cộng sản, ông đã rời bỏ kháng chiến. Vào năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, là ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, Hồ Trọng Hiếu.

Năm 1954, khi hiệp ước Geneva chia đôi đất nước, ông theo làn sóng di cư đem vợ con vào miền Nam sinh sống.

Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song, một của nhà văn và một của nhà giáo. Ông vẫn thường nói rằng: “nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp”. Trong cương vị nhà giáo, ông đã dạy tại các trường: Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951–1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn 1961–1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông cũng từng là hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960–1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966–1968).

Vào năm 1956, với cương vị nhà văn, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng. Ông vẫn ưu ái gọi nhóm văn nghệ của mình là “Thất Tinh”. Ông cũng có những bài viết được đăng trên các tạp chí văn nghệ như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật …

Gần một năm sau ngày miền Nam thất thủ (30/04/1975), hầu hết các nhà văn miền Nam bị bắt đi học tập cải tạo. Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung, cách thành phố Pleiku 25 cây số, Đến năm 1980, ông được trả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con gái là Doãn thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển Đi, được ký với bút hiệu Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông đã bị bắt lần thứ hai vào tháng 5 năm 1984, chỉ vài tháng trước ngày đi Úc. Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý… Ông bị kết án mười năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991.

Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh để di dân sang Houston, Hoa Kỳ. Sau đó ông sống tại Quận Cam, California cho đến khi qua đời vào sáng ngày Thứ Ba 14/10/2025.

Nguồn: https://doanquocsy.com/

Có thể bạn cũng quan tâm