Hồi nhỏ tôi là đứa học trò lười, bị điểm kém trong hầu hết các môn học. Tại trường bị cô giáo chê, về nhà bị bố la. Nhưng có một môn học tôi được điểm khá hơn, đó là môn Địa Lý, lúc đó gọi là Địa Dư. Tôi thích môn học này, chăm chú nghe cô giáo giảng bài tại lớp, về nhà chịu khó giở vở ra coi lại. Rồi mở cuốn sách Địa Dư ra xem thêm những trang có liên quan, xem những hình vẽ minh họa, nhất là những bản đồ. Và thả hồn đi lang thang.
Nhiều địa danh trên bản đồ Việt Nam, và cả Mên, Lào, chen nhau, vang dậy, và lũ lượt hiện lên trước con mắt ham hố và ngơ ngác của chú bé. Cao Bằng, Sơn La, rồi nhảy băng xuống đồng bằng sông Cửu Long, rồi ngược lên sông Mã, xuôi về sông Đà Rằng, rồi tạt qua Vạn Tượng, Biển Hồ… Trí tưởng tượng tha hồ tung bay, nhảy múa loạn xạ. Những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong sách cũng đủ khiến chú bé nghĩ ra nhiều chuyện hoang đường, ngô nghê, vô lý, vô nghĩa, quái gở.
Chẳng hạn Sa-Pa, hồi đó gọi là Chapa. Chú bé đứng ngồi không yên, ngẩn ngơ cả buổi vì cái tên lạ lùng đó. Nó nhớ cô giáo có lần bảo Chapa nằm sâu trong núi rừng Bắc Việt. Ghê gớm quá! Cây cối vùng đó chắc chắn nhiều và cao lớn lắm, sẽ ngày càng thêm rậm rạp. Rồi chiếm hết đất đai, nhà cửa của người ta. Thì người ta phải dọn đi nơi khác. Ba má của họ đã già yếu, lâu ngày mắt mù, tai điếc, đâu có thể đi theo kịp con cái, đành đi tìm những hang đá sống chung chồn cáo.
Lúc đã trưởng thành, tôi mong lắm nhưng giặc giã liên miên rồi đất nước chia đôi, tôi không thể đến Sa Pa. Cuối cùng Miền Nam thất trận, tôi rời bỏ quê hương. Sau này, khi trở lại thăm, tôi tìm đến Sa Pa. Vào mùa Đông, tôi muốn thế. Để sống với cái lạnh. Lạnh thì ở Bắc Mỹ, nơi tôi đang cư ngụ, có hiếm hoi gì đâu, nhưng tại một xứ nhiệt đới như Việt Nam, băng giá và có thể có tuyết vào mùa Đông như ở Sa Pa, đó mới là chuyện đáng quý.
Sa Pa, buổi sáng buổi chiều, sương mù mờ mịt. Không thấy được cả những ngôi nhà gần cạnh khách sạn nơi tôi ở. Đêm về rét cóng, máy sưởi lại trục trặc. Ban ngày, chốc chốc một cơn mưa nhỏ theo gió bay bay vờn trên đồi núi còn giữ lại nhiều nét hoang sơ dù lác đác đây đó dăm bảy ngôi biệt thự của Pháp ngày cũ để lại, vài ba nhà cao tầng mới, và những mái ngói đỏ.
Tôi tới những nơi được biết đến nhiều như Cổng Trời, Cầu Mây, Thác Bạc, Tà Phình … Gặp những cô gái người Mèo, người Dao, người Giáy y phục sặc sỡ, lưng mang gùi, tay đưa những món đặc sản mời khách mua — xâu chuỗi, khăn thêu, quạt giấy, mành mành, ống sáo. Được dịp ăn cơm lam với thịt heo nướng, trứng gà rừng nướng, bên bếp lửa hồng ấm dưới cơn mưa bụi. Chiếc dù to bảng không đủ để che kín mỗi khi cơn gió núi tạt qua. Cơm lam nấu trong ống tre dẻo, thơm, ngon. “Ông ơi, người phương Tây ăn hết 4 ống, ông mới 2 thôi, ăn thêm nữa đi ông.” Tôi rán ăn thêm dù đã no. Trả tiền xong, đứng dậy, đi được một quãng, nghe tiếng bước chân đuổi theo. “Ông ơi, xin biếu ông 2 ống. Mang về dưới đó ăn càng ngon hơn nữa. Cơm lam để cả tuần cũng không hư.”
Chỉ thăm Sa Pa một lần, nhưng tôi biết tôi sẽ nhớ mãi vùng núi non đầy sương mù và lạnh lẽo đó, và cũng không bao giờ quên Chapa “ghê gớm” trong trí tưởng tượng của tôi thời xa xưa bé dại ngu ngơ.
Lớn lên thành cậu học trò của những năm đầu trung học, tôi mong tới Phá Tam Giang nơi ba con sông chính của Huế là sông Hương, sông Bồ, và sông Ô Lâu gặp nhau trước khi đổ ra biển Đông. Và tiếp theo là tìm thăm Một Xóm Đạo Ven Rừng.
Phá Tam Giang thuộc loại đầm phá nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, chỉ cách trung tâm thành phố Huế dưới 20 cây số. Tôi ao ước tới Phá, nhưng vào thời đó chiến tranh liên miên, đường đi khó khăn, nguy hiểm.
Tôi nghe nói có một con đò đưa khách qua lại nơi hẹp nhất và sâu nhất của phá – bên bờ này là xã Hà Dương thuộc vùng phụ cận của thành phố Huế, bờ bên kia nằm rải rác các ngôi làng nhỏ như Hương Phong, Thể Chí Đông, Thể Chí Tây … Những ngôi làng này họp thành một rẻo đất khá dài một mặt tiếp giáp với phá, mặt kia nhìn ra biển cả.
Ít người qua lại phá, bến đò vắng. Đưa khách, chỉ một con đò nhỏ bé và “rách rưới tả tơi” vì gió lộng. Khách qua phá xong, đò đậu bên bờ chờ khách mới xuống đò. Nếu không có khách nào cả mà nghe tiếng gọi đò văng vẳng từ bờ bên kia, “Bơ đò ca cút, bơ đò ca cút”, thì con đò trống lại băng qua phá.
Bến đò Ca Cút đã có từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần cách đây trên 350 năm. Theo một truyền thuyết, tại vùng quanh bến đò đó ngày xa xưa, lâu lắm, có một loài chim kêu “ca cút, ca cút”. Người dân quê đặt tên loài chim đó là chim ca cút, và nhại tiếng chim:
Bơ đò ca cút
Tóc dài tóc cụt
Tre già măng mọoc …
Nếu Sa Pa đã cuốn hút tôi thời thơ ấu, thì một nỗi ám ảnh ở tuổi niên thiếu là Đò Ca Cút và Một Xóm Đạo Ven Rừng. Nhưng mãi đến năm 2010, gần 35 năm sau khi Miền Nam sụp đổ, tôi mới có dịp tìm đến Đò Ca Cút, cùng với Tùng, một người em họ. Hai anh em chở nhau trên một xe gắn máy qua các làng Chí Long (làng quê của Nguyễn Tri Phương, vị danh tướng triều Nguyễn đã oanh liệt đánh Nam, dẹp Bắc, nhưng cuối cùng đã cùng con trai là Nguyễn Lâm tử trận khi cố thủ thành Hà Nội chống lại quân Pháp. Em trai của cụ là Nguyễn Duy cũng tử trận tại đồn Kỳ Hòa, Gia Định, chống quân xâm lăng Pháp), Thể Chí Tây, Thể Chí Đông, cồn mồ làng Vân Quật Đông …, những ngôi làng ven Phá Tam Giang, để tới Đò Ca Cút.
Ca dao có câu, Phá Tam Giang ngày rày đã cạn. Thông thường ca dao nói lên những điều đáng tin cậy, nhưng đây là một ngoại lệ. Phá vẫn mênh mông, bát ngát, không hề cạn. Có nơi vẫn hung hiểm, nước xoáy, sóng to gió lớn, do ba con sông đổ ra gặp nhau. Cảnh trí thiên nhiên nơi thì mơ màng, nơi thì hùng vỹ. Hải sản nổi tiếng ngon. Lại có chợ nổi lênh đênh chiếm một vùng rộng lớn. Chợ nhóm rất sớm, khoảng 4 giờ sáng, và khoảng mới 7 giờ sáng, chợ đã vãn.

Trời xế chiều, chúng tôi ghé một quán lá bên đường ăn cháo lươn, cháo cá rất ngon với rất nhiều tiêu hành, uống bát nước chè xanh đậm chát, rồi tiếp tục đi. Nghĩ rằng sẽ tới Đò Ca cút, nhưng khi đến nơi, thấy một cây cầu khá dài và lớn bắc ngang qua phá. Chưa cho xe hơi qua lại, đi bộ hoặc xe hai bánh thì được. Thế là chúng tôi không còn dịp thử đứng bên này bờ “Rống cổ lên mà gọi đò”, mong tiếng gọi át tiếng gió lồng lộng của phá lớn, của biển rộng, đến tai người chèo đò.
Cầu được đặt tên là cầu Ca Cút.
Qua khỏi cầu, thay vì rẽ phải đi một đoạn ngắn là tới Bao Vinh, phố cổ của Huế, chúng tôi chạy thẳng về phía cửa Thuận An thăm biển.
Thế là hai ước mơ của tuổi nhỏ đã thành hiện thực – thăm Sa Pa, và Ca Cút.
Sau này sống ở Mỹ, tôi cũng đã tới thăm nhiều nơi trước kia khi còn ở Việt Nam tôi từng tha thiết mong có ngày đặt chân đến như Cầu Golden Gate ở San Francisco, Grand Canyon, New York; hay Paris, Rome, Athens; hay Vạn Lý Trường Thành v.v… Rồi tự hỏi, nơi nào đã mang lại nhiều cảm xúc nhất? Câu trả lời không chút phân vân: Sa Pa và Ca Cút. Tôi nhớ một câu ngắn cuối Bài tập đọc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư tôi học từ thời thơ ấu: Chốn quê hương đẹp hơn cả.
Và ước mơ thứ ba, như đã nói, là tới Một Xóm Đạo Ven Rừng. Hồi đó, mới học lớp bảy trung học, tôi say sưa đọc Tự Lực Văn Đoàn. Bỗng bài thơ Hận Tha La xuất hiện, làm dậy lên trong lòng những tình cảm mới, ước mơ mới.
Và những câu thơ rung động mới:
Ngậm ngùi Tha La bảo
Đây rừng xanh, rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Gió đùn quanh mây trắng
Và lửa loạn xây thành
hay:
Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách
hay:
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió nổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay
hay hai câu kết gây nhiều thương nhớ:
Trông đám chiên lành thương áo trắng
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh
Thông thường nhà thờ tọa lạc ngay tại trung tâm những thành phố náo nhiệt. Nhà thờ lớn như Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn, Hà Nội chẳng hạn. Hay những nhà thờ khác nằm rải rác khắp các thành phố trong cả nước. Nhưng đây là ngôi nhà thờ nhỏ của một xóm đạo ven rừng, chắc hẳn vắng vẻ, và lặng lẽ:
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
Cách đây gần 200 năm, vào cuối đời vua Minh Mạng, Thiên Chúa Giáo bị đàn áp dữ dội. Một số giáo dân khoảng 100 người rời miền Trung vào Nam lánh nạn, đến khai hoang lập ấp tại vùng Tha La thuộc tỉnh Tây Ninh. Đây là vùng đất đỏ rừng rậm hoang vu. Năm 1950, nhà thơ Vũ Anh Khanh tình cờ lạc bước đến:
Về chi đây khách hỡi, có ai chờ
Ai đưa đón? __Xin thưa tôi lạc bước
Tha La thuở đó vẫn còn:
Đây rừng xanh, rừng xanh

Câu thơ trên bỗng dưng gợi nhớ chuyện cũ. Tôi buồn cười trở lại với ý nghĩ rằng liệu rừng xanh của Tha La, có còn như Sa Pa trong tưởng tượng thời thơ ấu, lan rộng ra mãi, đánh đuổi con người đi nơi khác. Hay ngược lại, bây giờ những hàng cây hai bên đường lại cũng phải khép nép đứng trông lên những ngôi nhà cao ngất ngưởng. Và cây nhỏ, và bụi rậm, có lẽ cũng biết thân lánh đi đâu cả.
Ta thử theo gót nhà thơ. Vũ Anh Khanh sinh năm 1926 tại Mũi Né, Phan Thiết. Trước năm 1945 đã viết văn, làm thơ, làm báo. Vào Sài Gòn, hoạt động văn nghệ sôi nổi, cùng với Thẩm Thệ Hà, Lý Văn Sâm, Sơn Khanh, Dương Tử Giang … cộng tác với Nhà Xuất Bản Bạn Trẻ, Tân Việt Nam cho xuất bản một số truyện ngắn, truyện dài, trong đó truyện dài Nửa Bồ Xương Khô gồm hai tập, xuất bản tại Sài Gòn năm 1949, được nhiều người biết đến.
Vũ Anh Khanh là nhà thơ yêu nước theo cách của ông, chống Pháp, chống chánh quyền Việt Nam Quốc Gia. Nửa Bồ Xương Khô, Tập I, kể chuyện, một cách cảm động, những cô gái tuổi mới 20, trong đó Huyện là nhân vật chính, lên đường ra trận làm nữ cứu thương chiến đấu cạnh những người lính can trường chống lại giặc Pháp xâm lăng, cống hiến cuộc đời son trẻ cho tổ quốc. Trong Tập I đó có phần đầu của bài thơ Hận Tha La khá dài. Lời thơ đơn sơ, dung dị, nhưng linh động, uyển chuyển và đầy ắp cảm xúc. Tập II chủ yếu tuyên truyền cho phe bên kia, nhiều đoạn bị kiểm duyệt, và có đăng bài thơ Hận Tha La phần thứ hai bắt đầu từ câu, Ngày xa xanh mây trắng ngoẹn ngàn hàng. Bị chính quyền theo dõi chặt chẽ, nhà thơ trốn vào chiến khu. Đến năm 1954 khi đất nước chia đôi, Vũ Anh Khanh tập kết ra Bắc.
Tháng 12/1956 Vũ Anh Khanh là thành viên trong phái đoàn Cộng Sản Miền Bắc dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu tại New Delhi, Ấn Độ. Miền Nam Quốc Gia cũng được mời tham dự. Một sự kiện bên lề: Một hôm mấy người trong phái đoàn Miền Nam đi xe hơi tình cờ thấy Vũ Anh Khanh đang đi bộ một mình, bèn mời lên xe để cùng đến dự buổi họp sắp diễn ra, nhưng Vũ Anh Khanh từ chối.
Vài tháng sau khi dự Hội Nghị về có giấy đi công tác đến Vĩnh Phúc gần Hà Nội, Vũ Anh Khanh tẩy xóa sửa chữ Phúc thành Linh – Vĩnh Linh. Đó là một đặc khu phía bắc tỉnh Quảng Trị, gần sông Bến Hải. Trong đêm khuya nhà thơ bơi qua sông Bến Hải để trốn vào Nam, bị bắn chết bằng tên tẩm thuốc độc. Lính canh Miền Bắc dùng cung tên bắn những người vượt sông Bến Hải để khỏi gây tiếng nổ lớn có thể đến tai Phái Đoàn Hòa Bình Quốc Tế tại vùng Phi Quân Sự.
Tôi đã đi Tây Ninh ba lần. Hai lần trước 1975, một lần sau 1975. Đi Tây Ninh là cái cớ để ghé Tha La.
Lần nào đi Tây Ninh chúng tôi cũng dừng lại tại Trảng Bàng khá lâu. Xuống xe, đi quanh ngắm nhìn phố xá, người qua kẻ lại tấp nập, cuối cùng vào một quán ăn đông khách. Chúng tôi có kinh nghiệm rằng quán đông khách là quán ăn ngon, dù tới đó mình phải ngồi chờ. Trảng Bàng nổi tiếng về những món ăn đặc sản. Các bạn tôi, kẻ gọi bánh canh, hủ tiếu; người kêu bún cá, cháo vịt; tôi thì cơm tấm thịt kho nước dừa, dưa giá. Món nào cũng hấp dẫn. Trước khi tiếp tục lên đường đi Tây Ninh, chúng tôi không quên mua bánh tráng mang theo. Bánh tráng Trảng Bàng to, dày, hai lớp, được ủ trong sương sớm, gọi là bánh tráng phơi sương. Mua thêm vài cái nón lá, Trảng Bàng nổi tiếng về nghề chằm nón. Mua để nhớ Huế xa xôi, nhớ một một xóm nhỏ chuyên nghề chằm nón gần bến đò Chợ Dinh (nay là cầu Chợ Dinh), đường vào La Ỷ, và cũng gần một ngôi nhà thờ nhỏ.
Rồi cùng nhau lên xe đi Tây Ninh.
Không, tôi không quên Tha La đâu, nhưng hãy khoan. Chuyện đó hẵng tính sau. Cái kiểu lần lữa khất nợ.
Đã ba lần như thế.
Lần thứ nhất hỏi đường, một bạn đồng hành chen vào:
“Anh có người quen ở Tha La?”
“Không.”
“Thì đi Tây Ninh ngay cho thư thả. Còn phải tới núi Bà Đen, trèo núi thăm chùa nằm lưng chừng núi. Leo núi không phải dễ. Cố gắng leo tới đỉnh như đã định, nhé.”
Lần thứ hai hỏi chủ quán ăn, được biết rằng Tha La gần đây lắm. Tới ngã ba rẽ phải, xe chạy chỉ độ mươi phút là tới. Một bạn bàn ra:
“Tha La thì lúc nào đi mà chẳng được. Hơn nữa tới đó không lẽ bỏ đi liền, phải ghé nơi này nơi nọ, mất thì giờ. Mà mình còn phải tìm thăm nhiều nơi của thành phố Tây Ninh cho biết. Rồi thế nào cũng phải tới Tòa Thánh Cao Đài.”
Lần thứ ba càng có nhiều chỉ dẫn rõ ràng hơn. Đến Trảng Bàng, dừng xe lại tại chợ Gia Huỳnh, đi tới ngã ba Vựa Heo, hỏi ai cũng biết. Rồi rẽ trái vô con đường đất đỏ, đi tiếp một đoạn ngắn thôi, sẽ thấy nhà thờ Tha La.
*
Câu thơ gần cuối bài thơ Hận Tha La nghe như lời thúc giục:
“Khi hết giặc khách hãy về thăm nhé!”
Nhưng đã hết giặc hay chưa? Từ khi bài thơ Hận Tha La ra đời cho đến nay, đã ba phần tư thế kỷ trôi qua. Biết bao nhiêu nước chảy dưới cầu, biết bao nhiêu trận đánh ác liệt đã diễn ra trên đất nước quê hương nghèo khó, khốn quẫn, mà cứng cỏi này. Máu đổ đã thành sông, xương chất thành núi. Người theo phe này, người theo phe kia, dày xéo nhau, hủy diệt nhau, nhưng hầu như không hiểu thấu tại sao. Chỉ biết say máu ngà. Lại có kẻ như nhà thơ Vũ Anh Khanh, ở bên này tưởng cỏ bên kia hàng rào xanh hơn, bèn nhảy qua, rồi thất vọng nhảy trở lại. Để mua lấy cái chết oan khiên, uất ức, tức tưởi khi tuổi xanh vừa mới chớm ba mươi. Vâng, đã hết giặc hay chưa? Không lẽ người mình là giặc của nhau mãi mãi!
Ngự Thuyết
11/2025

