Hai nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn và Đinh Kim Phúc nói về việc dạy và học Sử, cách đánh giá các nhân vật lịch sử ở Việt Nam

Tác giả: Song Chi
Trái: Ông Đinh Kim Phúc, phải: ông Lê Nguyễn

Tạp chí Thế Kỷ Mới có cuộc phỏng vấn hai nhà nghiên cứu lịch sử độc lập: ông Lê Nguyễn, cựu Phụ tá Tỉnh trưởng đặc trách Phát triển Kinh tế dưới chế độ VNCH, và ông Đinh Kim Phúc, cựu giảng viên của Đại học Cần Thơ và Trường Đại học Mở TP.HCM, chung quanh những vấn đề về việc gần đây có những cuộc tranh cãi qua lại trên mạng xã hội về các nhân vật lịch sử, cách dạy và học Sử, cách đánh giá những nhân vật lịch sử dưới hai chế độ VNCH cũ và chế độ hiện nay v.v…

***

*Tạp chí TKM: Thưa nhà nghiên cứu Lê Nguyễn và nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, hai ông nghĩ gì về hiện tượng gần đây giống như có một “chiến dịch” báng bổ các nhân vật lịch sử như Vua Gia Long, Tả quân Lê Văn Duyệt, học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký v.v…? Vì sao lại có chuyện này?

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn:

-Trong thời gian qua, bỗng dưng có một số video clip hay bài viết của vài kẻ nào đó, gọi các nhân vật lịch sử Gia Long, Lê Văn Duyệt là “thằng”, hoặc đưa ra những quan điểm cực đoan chỉ phù hợp với xã hội Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỷ. Từ hiện tượng này, mạng xã hội sôi sục, phần đông người tham gia lên án mạnh mẽ những hành động vô ý thức như thế. Trong một bài viết trên Facebook nhân hiện tượng này, tôi có dùng hai từ “chiến dịch” trong ngoặc kép nhằm đề cập đến nhiều hành vi kế tiếp nhau xuất phát từ một ý đồ báng bổ tiền nhân, xuyên tạc lịch sử.
Tuy nhiên, trong sự phẫn nộ chung, ý kiến của công chúng lại khá dị biệt. Một số người cho rằng hành vi của những kẻ trên xuất phát từ sự chỉ đạo của các cơ quan hữu trách nhằm định hướng dư luận.
Về phần mình, bằng thực tâm và tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng, tôi không đồng tình với dư luận đó, căn cứ vào nhiều chứng cứ ghi nhận được, tiêu biểu là những bài viết của nhật báo Nhân Dân, tiếng nói của đảng Cộng sản Việt Nam, cùng nhiều cơ quan ngôn luận chính thống khác, nhằm nêu bật công lao to lớn của Tả quân Lê Văn Duyệt trong việc mang lại cho người dân đất Nam Kỳ một cuộc sống an cư lạc nghiệp, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao uy tín của triều Nguyễn đối với lân bang. Bản thân tôi, vào ngày 22.9.2025 vừa qua, trong dịp được mời tham dự lễ giỗ lần thứ 193 của Tả quân Lê Văn Duyệt, khi thắp hương tại chánh điện, tôi đã tình cờ nhìn thấy vòng hoa kính viếng của ông Nguyễn Văn Nên, nguyên Bí thư Thành ủy TPHCM và nhiều quan chức khác. Điều này cho phép tôi suy nghĩ rằng những biểu hiện bất thường trong thời gian qua chỉ có tính cá nhân, không xuất phát từ một sự chỉ đạo nào.
Trở ngược lại một quá khứ cách đây gần 35 năm, khi tôi cộng tác cùng một tờ tạp chí quen thuộc với độc giả cả nước, ban biên tập tờ báo lúc đó đã không dám thỏa thuận với đề xuất của tôi nhằm viết bài về các nhân vật Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản ….Khi ấy, các nhân vật đó là “vùng cấm” triệt để mà chỉ nhắc đến thôi, ngoại trừ để mạ lỵ, không tờ báo nào dám làm. Thế nhưng, sau gần 35 năm, tình thế đã chuyển biến dần, tuy có phần chậm chạp, song theo một chiều hướng đáng lạc quan hơn. Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt thường được người dân địa phương gọi là Lăng ông Bà Chiểu, được trùng tu, tên đường Lê Văn Duyệt được phục hồi, cuộc hội thảo về công lao đóng góp của các chúa Nguyễn vào công cuộc phát triển đất nước được tổ chức rầm rộ tại Thanh Hóa năm 2008, nhiều cuộc hội thảo khác về các nhân vật lịch sử từng là điều cấm kỵ như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký … trong chiều hướng đánh giá lại cho phù hợp với thực tế lịch sử, được chính quyền cho phép tổ chức một cách nghiêm túc và trang trọng.
Tuy nhiên, từ trường hợp đơn lẻ của Tả quân Lê Văn Duyệt, ta có thể suy ra một vấn đề rộng lớn hơn, đó là việc nhận định, đánh giá về triều Nguyễn, về công sức đóng góp của những công thần dưới triều đại này vào công cuộc phát triển chung của đất nước, cần được thực hiện trong tinh thần khách quan và công bằng vốn là những yếu tính quan trọng của lịch sử.
Hành trình từ những lạc quan bước đầu đến việc đáp ứng mong mỏi chung của mọi người vẫn còn khá dài, khi mà những con đường lớn tại thành phố Sài Gòn cũ mang tên của các công thần triều Nguyễn khác như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Võ Di Nguy, Trương Minh Giảng, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Huỳnh Đức, Phan Thanh Giản … đã bị gỡ bỏ bảng tên sau tháng 4.1975, đến nay vẫn chưa được xem xét, phục hồi tên cũ.     
Dù sao, tôi vẫn hi vọng rằng trong chiều hướng đang có những hoạt động nhằm đặt cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn vào đúng thực tế lịch sử của nó, cái nhìn của các cơ quan hữu trách đối với sự đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước của hầu hết các công thần triều Nguyễn sẽ có tính nhân văn và công bằng hơn trước.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc:

– Dùng từ “chiến dịch” thì không chính xác. Tôi không nghĩ là có chủ trương từ một cơ quan chức năng. Mà đây là cá nhân với cá nhân tập hợp lại với nhau để “đăng ký lập trường” bằng kiến thức hạn hẹp của mình chớ không phải là kết quả của việc nghiên cứu một cách kỳ công. Một ai đó cho rằng mình có quyền lên án, mạt sát hoặc chụp mũ ai khác chính kiến của mình. Điều này nó không chỉ xảy ra đối với việc tranh luận về lịch sử của Việt Nam, mà ngay cả nhận xét về cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine hiện nay.

*Tạp chí TKM: Các ông có so sánh gì về việc dạy và học Sử dưới chế độ VNCH và dưới 2 chế độ VNDCCH ở miền Bắc trong giai đoạn 1945-1976 và Cộng hòa XHCNVN trên toàn quốc từ năm 1976 cho đến nay? Vì sao cách đánh giá của VHCN với các nhân vật như Vua Quang Trung, nhà Tậy Sơn, Nguyễn Ánh-vua Gia Long, nhà Nguyễn Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt v.v…có những sự khác biệt?

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn:

 – Tôi không muốn so sánh giữa hai chế độ vào lúc này, vì hiện một bên là phe thắng cuộc, đang nắm giữ quyền điều hành đất nước, một bên là kẻ thua cuộc và trên thực tế, chế độ VNCH đã không còn tồn tại từ 50 năm qua. Có chăng là chế độ ấy cần được nhìn lại với cái nhìn trung thực và công bằng hơn mà thôi.
Thật ra, việc miêu tả nghiêm túc và khách quan chuyện dạy và học Sử tại hai miền Nam-Bắc trong quá khứ và hiện tại, tự nó đã tiềm ẩn các yếu tố để có thể so sánh rồi. Chuyện này xin nhường cho quý vị độc giả.
Ở miền Nam trước 1975, việc dạy và học lịch sử về cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn (1771-1802) diễn ra trên tinh thần tôn trọng tính khách quan và trung thực cần phải có. Việc đánh giá những nhân vật lịch sử tham gia cuộc nội chiến ấy khá công bằng, thể hiện qua chuyện lấy tên họ đặt tên đường, có Gia Long cũng có Quang Trung, thậm chí có Nguyễn Huệ mà không có Nguyễn Ánh, có Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Tấn Bửu … thì cũng có Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân … Người dạy và học sử vừa hết lời ca ngợi chiến thắng Đống Đa đầu năm 1789 của vị anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ, vừa ghi nhận công thống nhất đất nước của chúa Nguyễn Ánh, công phát triển xã hội của vua Gia Long …
Ở miền Bắc trước 1975, các sử gia đã đồng nhất hóa cuộc nổi dậy chiếm chính quyền của anh em nhà Tây Sơn mà họ gọi là “phong trào nông dân” với hoạt động của phong trào Cộng sản hình thành từ thập niên 1930, nên trong cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc vào những năm 1954 -1975, họ đã ra sức tô vẻ, thổi phồng nhà Tây Sơn bằng mọi cách. Muốn làm được như thế một cách có hiệu quả, tất nhiên, họ cũng phải bằng mọi cách vùi dập triều Nguyễn xuống bùn đen.
Trong một cuộc chiến căng thẳng, bên nào cũng tìm cách giành được lợi thế tâm lý về phía mình, việc giáo dục môn lịch sử cũng là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện điều ấy. Sau tháng 4.1975, chiến tranh kết thúc, lẽ ra sự thống nhất về địa lý phải kéo theo sự thống nhất lòng người, song điều đó đã không diễn ra. Bên cạnh nhiều yếu tố khác có tính chia rẽ xã hội, việc dạy và học sử không được sửa đồi, cải tiến cho phù hợp với xu thế chung, mà vẫn theo quán tính cũ của thời chiến.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc:

– Việc phê phán các nhân vật lịch sử như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ… trên Tạp chí Văn Sử Địa (sau này là Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử) ở miền Bắc vào cuối những năm 1950 đầu thập niên 1960, và việc một số người hiện nay phê phán Nhà Nguyễn và Triều Nguyễn, đều bắt nguồn từ những bối cảnh lịch sử, quan điểm chính trị và phương pháp luận sử học khác nhau. ​Phong trào này chủ yếu xuất phát từ Viện Sử học miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), với các bài viết đăng tải trên Tạp chí Văn Sử Địa và sau đó là Nghiên cứu Lịch Sử (do ông Trần Huy Liệu làm chủ trì). ​

Cuối những năm 1950, với Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Lao động Việt Nam là dùng bạo lực vũ trang để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nên quan điểm sử học của nhà nước bấy giờ nhấn mạnh vào tinh thần dân tộc, ý chí kháng chiến chống xâm lược và vai trò của quần chúng nhân dân. Đảng cần phải xây dựng những tấm gương “chính diện” để giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù giặc…dẫn đến các nhân vật lịch sử được đánh giá chủ yếu dựa trên tiêu chí “lập trường” và “hành động” của họ trước hiểm họa xâm lược của thực dân Pháp. Phan Thanh Giản bị phê phán nặng nề, thậm chí bị kết tội “mại quốc” (bán nước), vì là người đại diện triều Nguyễn ký hòa ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp (1862) và là người tự sát khi ba tỉnh miền Tây thất thủ (1867) thay vì kháng cự đến cùng. Ông được coi là đại diện cho phe “chủ hòa” hèn nhát, đối lập với phe “chủ chiến” và phong trào Cần Vương sau này. “Phan Lâm mại quốc. Triều đình khí dân” được sử dụng nhiều nhất nhưng không ai chứng minh câu nói này xuất phát từ đâu? Khi nào? ​Nguyễn Trường Tộ bị phê phán vì tư tưởng canh tân theo phương Tây của ông bị cho là “tiểu tư sản”, “xa rời thực tế” của quần chúng, hoặc là quá ảo tưởng về khả năng cứu nước bằng cách cải cách kỹ thuật, thiếu một đường lối cứu nước quyết liệt và triệt để hơn. Việc phê phán nhằm mục đích khích lệ tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, củng cố ý chí thống nhất đất nước trong bối cảnh đất nước bị chia cắt, và xây dựng một nền sử học phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước.

Lịch sử là câu chuyện của ngày hôm qua. Học và nghiên cứu lịch sử là để rút ra bài học kinh nghiệm cho hôm nay và cho tương lai. ​Việc phê phán Nhà Nguyễn hiện nay vẫn tồn tại, nhưng có nguyên nhân và sắc thái phức tạp hơn so với giai đoạn trước. Quan điểm sử học chính thống trong một thời gian dài đã tập trung khai thác những sai lầm và tiêu cực của triều Nguyễn, đặc biệt là giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Coi triều Nguyễn là triều đại đã để mất nước, mà nguyên nhân được quy kết là do chính sách đối ngoại bảo thủ, “bế quan tỏa cảng”, cấm đạo Thiên Chúa, tham nhũng, hà hiếp dân chúng, và sự nhu nhược, chủ hòa trước quân xâm lược… Thử hỏi đặt Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á trước hiểm hoa thực dân từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, chỉ trừ Siam là giữ được độc lập nhưng phải mất đất vào tay thực dân Anh và Pháp. Việc Nguyễn Ánh cầu viện Pháp (Hiệp ước Versailles 1787, dù không thành) bị coi là “rước voi giày mả tổ” hay “cõng rắn cắn gà nhà”, là tội lỗi không thể dung thứ. Nhưng lịch sử của quá khứ nếu phải lên án bất chấp hoàn cảnh lịch sử nước nhà trong cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và các chúa Nguyễn thì chúng ta phải giải thích sao đây trong lịch sử hiện đại của Việt Nam khi mà có hơn 300 ngàn quân Trung Quốc, Liên Xô, Bắc Triều Tiên ở miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam (1954-1975)?

Một chi tiết cần phải chú ý trong tranh luận, có người khẳng định như đinh đóng cột rằng Tây Sơn mới chính là lực lượng thống nhất đất nước vào nửa sau thế kỷ 18? Vậy những tiêu chí nào về khái niệm “thống nhất đặt nước” thì người ta không chỉ ra được? Phủ nhận vai trò của Hoàng đế Gia Long trong việc chính thức xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816 theo thông lệ của phương Tây là việc làm ngu xuẩn nhất hiện nay, nó đã phủ nhận bộ hồ sơ xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã gởi cho LHQ và các cơ quan tài phán quốc tế. Cần phải nhấn mạnh rằng, hiện nay Hoàng Sa là đối tượng đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc và Trường Sa là đang bị tranh chấp bởi đa quốc gia. Thử hỏi nếu trong tương lai Việt Nam phải ra Tòa án Công lý quốc tế (IJC) thì Tòa căn cứ vào bản đồ Hồng Đức, bộ Toản tập Thiên Nam chí tứ lộ đồ thư, Phủ biên tạp lục…hay các sắc lệnh của triều đình Nguyễn để phán xử dựa trên định nghĩa phổ quát về quá trình thụ đắc lãnh thổ?

Có một vấn đề cũng cần nhìn nhận vào sự thật. Trước đây không lâu, có một tổ chức cực đoan ở hải ngoại chuyên bài trừ Công giáo và dẫn đến họ phủ nhận tất cả các nhân vật nào dính đến Công giáo, dính đến thực dân Pháp. Họ thò tay vào Việt Nam, gây dựng nên một số chân rết bằng cái gọi là tài trợ nghiên cứu khoa học để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Họ dùng chữ Quốc ngữ để lên án những nhà sáng lập ra chữ Quốc ngữ dù các vị giáo sĩ này có mặt ở Việt Nam trước đó trong thời gian vài thế kỷ trước khi thực dân xâm lược Việt Nam.

Hiện nay, với sự tiếp cận đa dạng nguồn tài liệu (trong và ngoài nước), nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các cái nhìn đa chiều hơn, làm rõ công và tội, bối cảnh lịch sử cụ thể, và những đóng góp của triều Nguyễn (như thống nhất đất nước, mở mang bờ cõi phía Nam, xây dựng luật pháp, văn hóa…). Tuy nhiên, việc “phục hồi” danh dự cho một số nhân vật (như Phan Thanh Giản) hoặc nhìn nhận công lao của Nhà Nguyễn lại vô tình làm nổi bật hơn những sai lầm của triều đại này trong mắt những người vẫn giữ quan điểm truyền thống hoặc những người mới tiếp cận thông tin. Phê phán những sai lầm và thừa kế những di sản của tiền nhân để lại là những nguyên tắc cơ bản của việc nghiên cứu lịch sử. Trong không gian mạng, những tranh luận về triều Nguyễn thường bị đẩy lên cao trào, trở thành một đề tài nhạy cảm và dễ gây chia rẽ, khiến việc phê phán đôi khi mang tính cảm tính, thiếu căn cứ hoặc bị “chính trị hóa” một cách đơn giản hóa. ​Tóm lại, cả hai phong trào phê phán đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nhu cầu chính trị và quan điểm sử học chi phối từng giai đoạn lịch sử. Giai đoạn 1950-1960 nhấn mạnh khí phách dân tộc, chủ nghĩa anh hùng chống Pháp, còn việc phê phán hiện nay là sự va chạm giữa quan điểm sử học chính thống lâu đời với các góc nhìn phản biện, đa chiều đang dần xuất hiện trong xã hội.

Như tôi đã nói, cách đánh giá về các nhân vật lịch sử của 2 miền Nam- Bắc có khác nhau dù sự kiện thì chỉ có một. Miền Bắc nhấn mạnh đến yếu tố đấu tranh giai cấp, giữa chính và phi nghĩa để phục vụ cho lĩnh vực tư tưởng của cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra.

*Tạp chí TKM : Người thầy dạy Sử đứng trên bục giảng phải dạy theo sách giáo khoa đã đành, nhưng còn nhà báo, nhà nghiên cứu ở Việt Nam, cơ hội nào cho họ đưa ra những quan điểm, nhận định cho tới công trình nghiên cứu lịch sử một cách khách quan? Và điều này đã ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng công việc, công trình của họ?

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn:

– Ở câu hỏi này, có một sự trớ trêu là ta phải phân định sự khác biệt giữa nhà báo và nhà nghiên cứu, cho dù họ cùng hoạt động trong nhiều lãnh vực học thuật như nhau.
Nhà báo có chung một “tổng biên tập”, hoạt động của họ nằm trong một khuôn khổ được định hình đồng nhất, mọi biểu hiên cá nhân không phù hợp với quan điểm chung không được phép bày tỏ; còn nhà nghiên cứu có được nhiều điều kiện để hoạt động tự chủ hơn, trong khuôn khổ rộng lớn của mạng xã hội cùng các phương tiện truyền thông khác.
   Tất nhiên, trong điều kiện đó, công luận luôn tin tưởng và đánh giá cao những thể hiện của giới nghiên cứu hơn là các nhà báo.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc:

Hiện nay việc học- dạy- nghiên cứu lịch sử phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, nói chung là ” tính Đảng”. Phải tuân thủ nội dung giảng dạy theo quy định của nhà nước. Riêng vấn đề nghiên cứu khoa học lịch sử, không ai cấm các nhà khoa học nghiên cứu, nhưng kết quả nghiên cứu như thế nào thì phải nhìn lại thực tế của Việt Nam: công bố lúc nào? Công bố nội dung gì? Tại sao công bố? Hội thảo khoa học về Nhà Nguyễn và triều Nguyễn đã cho ra nhiều quan điểm mới nhưng chính thức có thừa nhận những quan điểm mới đó không là một vấn đề khác. Hiện nay nhiều người còn lẫn lộn giữa tuyên huấn và khoa học, pháp lý. Ví dụ như tài liệu nào có giá trị pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Trong nước, tuyên huấn thì không thừa nhận chính quyền hiện nay kế thừa chế độ VNCH từng tồn tại ở miền Nam. Từ sau Hiệp định Genève 1954 cho đến 30/4/1975 và cho đó là “ngụy”? Nhưng nhìn những nội dung đàm phán giữa CHXHCN Việt Nam và Mỹ trước khi bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ thì “ngụy” ở chỗ nào? Rồi CLB Paris đã hành xử như thế nào trong hậu chiến ở Việt Nam?

Ngay việc đánh giá tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954-1975, chỉ thuật ngữ ” chiến tranh Việt Nam” còn không được chấp nhận. Dù trong tác phẩm “Thư vào Nam” của Lê Duẩn đã có nhắc đến khái niệm ” nội chiến” nhưng lại bị lờ đi bởi những người không phải là nhà nghiên cứu.

*Tạp chí TKM: Theo hai ông, vì sao một dân tộc cần phải hiểu rõ, hiểu đúng về lịch sử của mình?

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn:

Lịch sử là ký ức của một dân tộc, ký ức ấy có được nhớ đúng, hiểu đúng, và đánh giá đúng thì dân tộc đó mới có cơ hội vượt qua những rào cản của quá khứ, người trong cùng một dân tộc mới biết thông cảm với nhau trong hiện tại và cùng nhau định hình một tương lai đáng sống cho mọi người.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc:

Lịch sử của một quốc gia đâu chỉ là lịch sử của đấu tranh giai cấp, lịch sử chiến tranh…mà quan trọng phải là lịch sử kinh tế, văn hóa…đó là khiếm khuyết của các nhà biên soạn lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, nhưng bộ Tư bản luận của Mác thì không chịu đọc.  Ngày xưa sách giáo khoa lịch sử cũng khác hôm nay. Ở bậc Tiểu học, thầy cô không bắt học sinh phải thuộc lòng tiểu sử của nhân vật lịch sử nhưng phải nhớ và hiểu vai trò của các nhân vật lịch sử mà 50 năm sau cũng không quên. “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” thì đó là Trần Bình Trọng,

“Ngồi đan sọt mà lo việc nước” chính là Phạm Ngũ Lão… Sang đến bậc Trung học, sách giáo khoa không còn thống nhất, học sinh tiếp thu kiến thức lịch sử như nhau nhưng để hiểu lịch sử thì trong 1 tiết học phải trả lời từ 3-5 câu hỏi của giáo viên đặt ra. Lịch sử vào trong tương lai duy của học sinh bằng sự cảm nhận chớ không phải nhồi nhét giáo điều.  Học và thi là câu chuyện không mới. Học gì thi đó! Câu trả lời chính xác. Nhưng lịch sử Việt Nam đâu chỉ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20? Một thí dụ điển hình là trong đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024, những người ra đề và dựng đáp án cho thấy họ toàn GS, TS nhưng không hiểu gì về công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội 6 (tháng 12 năm 1986) thì thử hỏi học sinh phải hiểu lịch sử như thế nào?

Như tôi đã nói, lịch sử là câu chuyện của ngày hôm qua, không làm thí nghiệm hay tái tạo lại đúng 100% như nó đã xảy ra nhưng bằng tư liệu lịch sử ta có thể hiểu được bản chất của nó để rút ra những bài học kinh nghiệm cho hôm nay và tương lai. Hiểu sai bản chất của một sự kiện, hiện tượng hay biến cố lịch sử sẽ dẫn đến có những chủ trương sai lầm, không hợp lòng dân, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Sai lầm của thời kỳ cải cách ruộng đất mà Đảng đã nhận ra là một bài học lịch sử bằng xương máu.

*Tạp chí TKM: Theo các ông, những “căn bệnh” nặng nề nhất của bộ môn Sử nói riêng và giáo dục Việt Nam nói chung là gì và một nền giáo dục như vậy liệu có đáp ứng được khát vọng bước vào kỷ nguyên mới của Việt Nam?

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn:

–  Bằng cảm nhận của một người dân bình thường, tôi thấy rằng về mặt dạy và học lịch sử, trong sự đồng hành giữa giáo dục và cộng đồng xã hội nói chung, đã không có sự “đều bước”. Trong cộng đồng xã hội, cùng với phát triển của công nghệ thông tin, nhiều biểu đạt “tiến bộ” về quan điểm lịch sử được công luận đồng tình và không vấp phải phản ứng trái chiều đáng kể của các cơ quan, giới chức có trách nhiệm, thì trái lại môn giáo dục lịch sử tại nhà trường gần như “dậm chân tại chỗ”, với những định kiến và định hướng trước tháng 4.1975. Vẫn là ta chính nghĩa, địch phi nghĩa, vẫn là nhà Tây Sơn cao vòi vọi đến trời xanh còn nhà Nguyễn thì đáng vùi lấp xuống hố bùn!
Sự khác biệt khá lớn hiện nay giữa nhận thức xã hội về mặt lịch sử với những gì mà giới trẻ, chủ yếu là sinh viên-học sinh, được giáo dục trong nhà trường, đã tạo ra một hệ quả rất đáng lo ngại, đó là nhiều lúc họ ngơ ngác trước ngả ba đường, không biết nên nghe theo sự đánh giá công tâm của công luận hay phải nhắm mắt tin vào những giáo điều đã tồn tại hàng 5-7 chục năm, để cuối học kỳ, có được một mảnh bằng trong tay?
Hệ quả là những kẻ chây ì dễ dàng đóng khung hiểu biết lịch sử của họ theo đúng những gì được nhồi nhét ở nhà trường, sẵn sàng có những phát ngôn theo kiểu gọi các nhân vật Gia Long, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là “thằng”, và sẵn sàng buông ra những bình luận vô văn hóa nhất trên mạng xã hội. Hệ quả đó còn đáng báo động hơn khi cả những người có địa vị xã hội cao cũng sẵn sàng mở ra những cuộc “đấu tố” lịch sử, khiến cộng đồng mạng phải buông lời mỉa mai, dè bỉu.
Theo thiển ý của tôi, hiện tượng môn giáo dục lịch sử ở nhà trường không bắt kịp đà tiến bộ của xã hội, tạo ra một khoảng cách lớn giữa hai phía, là điều rất đáng báo động, với những hệ quả bất lợi cho nhận thức và tương lai của thế hệ trẻ ngày nay. Suy rộng hơn, không chỉ về môn giáo dục lịch sử, mà nền giáo dục nói chung vẫn còn nhiều khiếm khuyết cần được đánh giá đúng thực trạng để có thể sửa đổi, cải tiến hầu bắt kịp đà phát triển chung của cả khu vực và trên thế giới.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc:

“Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” chớ không ai nói kỷ nguyên vươn mình của giai cấp, của đảng phái. Yếu tố dân tộc rất quan trọng. Không có đại đoàn kết dân tộc thì sẽ thất bại hoàn toàn trong mọi công cuộc kiến tạo đất nước. Gác lại quá khứ- hướng đến tương lai không chỉ dành cho quan hệ quốc tế mà phải dành cho người Việt với người Việt. Học lịch sử ngày nay không dừng lại ở việc biết và hiểu. Mà còn phải làm ra lịch sử mới cho dân tộc Việt Nam: Độc lập dân tộc- Thống nhất đất nước- Toàn vẹn lãnh thổ cho một Việt Nam cường thịnh. Ai đi ngược lại những nội dung này mới chính là phản động.

*Tạp chí TKM: Xin chân thành cảm ơn hai nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn và Đinh Kim Phúc về cuộc trao đổi này.

Song Chi (thực hiện)

Có thể bạn cũng quan tâm