
Trong khung cảnh vui vẻ họp mặt để chào đón cuốn Theo Dấu Thư Hương II của anh Trịnh Y Thư, tôi rất mừng thấy trong danh sách phát biểu có anh Cung Tích Biền và chị Nguyễn Thị Khánh Minh. Anh Trịnh Y Thư là một nhà văn. Nhiều phần anh Cung Tích Biền sẽ nói về Theo Dấu Thư Hương II qua cặp mắt của một nhà văn. Chắc chị Khánh Minh cũng sẽ nói về anh Trịnh Y Thư và tác phẩm của anh theo nhãn quan của một nhà thơ. Nhiệm vụ của tôi do đó sẽ nhẹ hơn. Tôi xin được nói về ý niệm “thư hương” của anh Trịnh Y Thư, rồi sau đó kể lại một kỷ niệm với anh từ hơn 40 năm trước.
Đầu tiên, chung niềm cảm ơn anh Trịnh Y Thư cùng những anh, những chị theo nghiệp cầm bút vẫn mài miệt viết rồi cố gắng in để tác phẩm của mình có thể tới tay người đọc, tôi xin phép được đọc một đoạn từ email của một anh bạn trẻ ở San Diego. Anh bạn này còn rất trẻ so với đa số chúng ta ở đây. Cách đây khoảng 2 năm, khi anh từ San Diego lên chơi, tôi đã tặng anh một ấn bản của Theo Dấu Thư Hương (I). Khi được tin chúng ta sẽ chào đón Theo Dấu Thu Hương II hôm nay, ngày 16 tháng 11 vừa qua, anh đã viết cho anh Trịnh Y Thư và cc. cho tôi một email với ít lời xin được trích dẫn phía sau:
“Kính gửi chú Trịnh Y Thư,
Cháu viết bài này để tự nhắc bản thân mình không quên thói quen đọc sách giấy, và để cảm ơn chú đã viết cuốn tạp luận Theo Dấu Thư Hương I với ý nghĩa nhân sinh. Cháu được thầy B. tặng cuốn sách, và biết ơn món quà quý này, Cách để cháu bày tỏ lòng biết ơn là xin chia sẻ những điều tốt đẹp mà cháu được nhận với những người khác.
Phía sau là một phần trong bài viết của anh bạn ấy:
… “Ngày nay đa số người ta không đọc sách nữa, mà chỉ liếc nhìn trên mạng những thông tin trong vài phút đồng hồ rảnh rỗi hiếm hoi, và những thông tin ấy cũng chỉ lưu lại trong bộ nhớ không quá vài sát-na. Xu hướng của thời đại là thế. Cuộc sống càng hiện đại tân tiến, con người càng tất bật vội vàng, càng chóng lãng quên, một nghịch lý hết thuốc chữa của đời sống.”
Đoạn văn này được trích từ “Lời ngỏ” cuốn tạp luận “Theo Dấu Thư Hương” đầu tiên của nhà văn Trịnh Y Thư. Trong thời đại mà sự tiện lợi có thể đạt đến mức “AI” trong nhiều lãnh vực bao gồm cả sáng tác nhạc, có thể tới một ngày nào đó, phải chăng con người không cần viết thư tay bày tỏ tình cảm bằng cảm xúc tự nhiên nữa từ trái tim vì đã có “AI”???
“Trí thông minh nhân tạo – artificial intelligence (AI) – là một ứng dụng tuyệt vời cho nhiều lãnh vực khác nhau, song không thể và không bao giờ có thể là phương cách dành cho tất cả mọi điều trong cuộc sống. “AI” chẳng bao giờ thay thế được cảm giác nhẹ nhàng và thư thái khi những ngón tay chạm khẽ từng trang sách, bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm dấu yêu xuôi theo trang sách và biết ơn cuộc đời này cho chúng ta được trải qua những cảm giác và cảm xúc được làm những con người biết yêu thương nhau. Dường như đọc sách giấy vẫn cho chúng ta cảm giác được thương, được nhớ nhiều hơn là cách cảm nhận cuộc đời qua màn hình điện tử của những thiết bị hiện đại thời nay… Trong những lãnh vực không thể thiếu sự sáng tạo và tình cảm tự nhiên từ tâm hồn và trái tim của con người thì “AI” không thể là người bạn tri kỷ.
… Vì “AI” không thể và không có khả năng thay thế được cảm xúc trí tuệ của con người nên thói quen đọc sách giấy, với cảm giác rất đỗi yêu thương của ngón tay chạm vào trang sách, là điều cần được giữ lại một cách từ tốn trong đời sống hiện đại, nhiều khi khiến trái tim ta vội vàng quên mất hai chữ “thư hương” được nhà văn Trịnh Y Thư luận giải trong cuốn sách, mà ở đó tác giả tự nhận mình là “một cuồng tử mộng mơ.”
(Hết trích dẫn bài viết của người bạn trẻ ở San Diego)
1) Về nghĩa của hai chữ “thư hương,” một bạn trẻ khác đã hỏi tôi:
–“Hương” ở đây có nghĩa là “hương thơm” hay là “quê hương? “Nếp thư hương” là những người biết biết quý hương thơm của cuốn sách (biết trọng giá trị tinh thần của sách), hay là những người yêu quý sách, coi sách như quê hương??
Với người bạn ấy, tôi đã trả lời như sau:
–Đúng là cả hai chữ đều có nghĩa:
Thư hương 書香 là Hương thơm của sách.
Thư hương 書 鄉 là Quê hương của sách, hay Những người yêu quý sách, coi sách, coi học vấn, những kiến thức lĩnh hội được qua sách, qua việc học, như quê hương của mình. Ý niệm này cũng gần giống ý niệm “Duy tuệ thị nghiệp,” phương châm tu học của Phật giáo.
Tuy nhiên, theo các tự điển/từ điển (như Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, thì khi tiền nhân nhắc đến thư hương, chữ “thư hương” ấy có nghĩa đen là “hương thơm của sách.” Theo Việt Nam Tự Điển, “thư hương” có nghĩa bóng là “nhà dòng dõi có học.” Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, “thư hương” có nghĩa là “con cháu nhà có học, kế thừa nghiệp cũ của cha ông,” hay “nền nếp nhà nho.” Trong các văn bản chữ Hán, chữ Nôm, tiền nhân luôn luôn viết chữ 香 với nghĩa là hương thơm.
Theo nghĩa đen, đúng là có một mùi hương rất khó gọi tên, nhưng ai từng cảm nhận đều nhớ. Đó là mùi giấy mới – mùi của những trang sách vừa in xong, hay của tập vở học sinh được mở lần đầu. Với nhiều người trong chúng ta, hồi ức về thời học sinh không chỉ là tiếng trống trường mà còn là mùi thơm của tập vở mới, của sách giáo khoa vừa phát, thơm tho, sạch sẽ. Mỗi lần lật giở, mùi mực in nhẹ nhàng xen lẫn mùi giấy mới như đưa ta trở lại những ngày vô tư, hồn nhiên. Đó là cảm xúc mà không một file PDF hay một ebook nào có thể mang lại.
Những trang sách mới có mùi hương được tạo ra bởi các thành phần chính là giấy, mực dùng để in sách và chất kết dính được sử dụng để đóng sách. Nhiều hóa chất được sử dụng để làm ra giấy, phần lớn được sản xuất từ bột gỗ. Một số hóa chất có thể được thêm vào để làm giảm độ axit và làm cho các sợi trong bột được phồng lên. Chúng được tẩy trắng bằng hỗn hợp các hóa chất khác và một số chất phụ gia. Các chất này bay hơi vào không khí, tạo ra một mùi đặc biệt.
Mùi giấy mới, sách mới không chỉ là chất liệu vật lý, mà còn là một phần của văn hóa, của ký ức tuổi thơ.
Tôi không nhớ hai câu thơ sau của tác giả nào:
–“Những trang sách cất lời, Hít hà mùi giấy mới”
nhưng ở quận Bình Chánh, Sàigòn hiện nay, có một nhà sách lấy tên là Mùi Của Giấy.
Địa chỉ đầy đủ là: Số 41, Đường số 9, Khu dân cư Trung Sơn, Quận Bình Chánh, TpHCM
Phía sau là trang mạng của nhà sách ấy:
MÙI CỦA GIẤY – GÓC NHỎ CỦA KÝ ỨC
2) Thêm vào đó:
–Nhiều văn thi phẩm có giá trị được in trên những loại giấy tốt và quý, có hương thơm.
–Có khi sách được ép (giữa hai trang trong sách) với những loại hoa hay lá có hương thơm để ngừa côn trùng.
Thơ Nguyễn Du có câu: Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương
(Cửa sổ, với mùi thơm của cỏ vân hương, đã từ lâu nhiễm hương thơm của sách trong thư phòng)
Sách thời xưa được in trên giấy bản, đôi khi được ép với cỏ vân hương (cũng gọi là hương thảo hay cửu lý hương). Cỏ này có tinh dầu với đặc tính khử côn trùng, được ép vào sách để ngừa các loại côn trùng ăn hại giấy.
Câu thơ trên được Quách Tấn dịch là:
Song vân từng thấm vị thư hương.
Chúng ta cũng có thể dịch là:
Song văn từng nhiễm sách thơm hương.
3)–Nhưng trong “Theo dấu thư hương,” nhà văn Trịnh Y Thư đã viết “thư hương” theo nghĩa bóng: truyền thống, phong cách của sự đọc sách, của học vấn, kiến thức. Ngô Thời Nhậm cũng đã dùng chữ “thư hương” theo nghĩa ấy:
Hàn mặc thư hương lưu khánh viễn
(Bút mực với truyền thống đọc sách, trọng sách, giữ phúc nhà đi xa = giữ được lâu dài).
Trong truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Tự cũng viết “thư hương” theo nghĩa ấy:
Rồi ra luyện tập văn chương
Cách nào sáng dấu thư hương mặc lòng.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã viết:
–Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
–Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Trong bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, Gs. Huỳnh Sanh Thông dịch “mach thư hương” là “one brought up among the fine books.”
Văn hóa Đông và Tây cùng tôn trọng sự đoc sách, tôn trọng học vấn, kiến thức:
Ở Trung Hoa và Việt Nam xưa:
—Di tử kim mãn doanh
Hà như giáo nhất kinh.
(Để lại cho con đầy một rương vàng không bằng dạy con một cuốn sách)
–Thư trung hữu kim ngọc
–Thư trung hữu nữ nhan như ngọc.
Tiền nhân cũng cho rằng văn chương hay vẫn có giá trị lâu dài. Nhà thơ Lý Bạch đã viết:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
(Văn chương, từ phú của Khuất Nguyên được treo cao với mật trời, mặt trăng
Lâu đài của vua nước Sở không còn gì giữa những núi gò).
Môt người bạn của anh Trịnh Y Thư đã dịch thoát như sau:
Khuất Nguyên trang gấm truyền lâu
Điện đài vua Sở chìm sâu lớp gò.
Ở Tây phương:
Trong Theo Dấu Thư Hương I, nhà văn Trịnh Y Thư đã sưu tầm và liệt kê nhiều câu danh ngôn đề cao giá trị của sự đọc sách. Tôi xin ghi lại đây hai câu tiêu biểu:
–“Một căn phòng không sách vở giống như một thân xác không linh hồn”
Cicero (106-43 TCN)
“Đừng đọc sách chỉ cốt để giải trí như trẻ con, hoặc như kẻ tham vọng với mục đích tìm tòi để thăng tiến. Không, hãy đọc sách để mà sống”
Gustave Flaubert (1821-1880)
Theo nhà văn Trịnh Y Thư, nếu hiểu “thư hương” là cốt cách nhà nho thì cốt cách ấy là đọc sách. Đọc để luyện chí, chứ không phải để thi đỗ làm quan.
Qua phần 2, xin được kể một câu chuyện hơn 40 năm trước.
Khoảng năm 1984, một bài thơ được đăng trên một tờ báo Việt ngữ ở Orange County với tiêu đề “Con nước vô danh.”
Chúng ta cùng biết các dòng nước vẫn thường được đặt tên. Nếu là sông, thì sông ở Việt Nam, ở Trung Hoa, ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ … đều có tên. Nếu là suối, trên đường vào chùa Hương có suối Yến, Bạch Cư Dị có bài thơ về suối Bạch Vân (Bạch Vân tuyền). Nếu là kênh (kinh), thì ở miền Nam có kênh Vĩnh Tế, kênh Xáng, các kênh Chợ Gạo, Tàu Hủ, Ruột Ngựa … Nếu là rạch (nhỏ hơn), chúng ta cũng biết có rạch Miễu, rạch Bà Chiểu (ở Sài gòn), rạch Vọp (ở Sóc Trang) …
Nhưng con nước này trong bài thơ này nhỏ, chưa hề được đặt tên, chỉ là một con nước “vô danh.”
Trong bài thơ có những câu như sau:
Trong đêm thầm gọi nhỏ
Nghiêng ngả ly rượu cay
Cánh chim nào trong gió
Như mười năm vèo bay.
Từ khi miền Nam sụp đổ năm 1975 tới thời điểm ấy (1984) được gần 10 năm. Có thể tác giả đã viết “mười năm” theo nghĩa tương đối, không nhất thiết thật chính xác. Nhưng cũng có thể tác giả muốn nói đến một số chuyện từ trước năm 1975:
Mười năm trôi trôi dạt
Nhìn cơn mưa đổ dài
Tìm nhau nơi quán chợ
Mắt trắng dã trần ai.
“Ở giữa chợ chỉ thấy nhân gian mắt trắng” thực ra không phải là một ý mới. Nguyễn Bính từng viết từ giữa thập niên 1940:
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà người cả tiếng cười.
Nhưng trong khi Nguyễn Bính khinh thế ngạo vật, ngồi uống tới say ở giữa chợ rồi “cả cười” chê thế nhân mắt trắng, thì tác giả buồn và cô đơn, đi tìm tri âm ở giữa nơi đông đúc nhất nhưng không tìm được ai:
Mườăm trôi trôi dạt
Nhìn cơn mưa đổ dài
Tìm nhau nơi quán chợ
Tác giả hiền và cô đơn hơn, chỉ buồn chứ không “ngạo nghễ” với ai cả.
Trong bài thơ còn những câu như:
Ngồi thì thầm chuyện cũ
Giọt nước mắt đêm thâu
Hợp tan như mây nổi
Chập chùng hồn biển dâu.
và:
Núi đồi câm nín cả
Ta một mình đọc thơ.
Tên tác giả được in dưới bài thơ: Trịnh Y Thư.
Sau khi báo phát hành, có một người đọc bài thơ, giật mình xúc động, đọc đi đọc lại, rồi tìm cách liên lạc với tòa báo để hỏi xin tên thật và địa chỉ của tác giả. Hơn 40 năm trước, ít nhất với người đọc thơ ấy, “Trịnh Y Thư” còn là một danh hiệu mới. Sau khi hỏi được địa chỉ, người đọc thơ lái xe — khá xa — đi tìm tác giả, rồi khi tìm được, chỉ để nói rằng, “Bài thơ của anh truyền cảm quá!” Từ đó bắt đầu một tình bạn, tới nay đã hơn 40 năm.
Từ 1984 tới 2025, con nước vô danh đã trở thành một con sông lớn, một trường giang, đại giang rất nổi danh. Từ một ít bài thơ đầu thập niên 1980, Trịnh Y Thư đã để lại cho chúng ta một văn nghiệp đáng nể trọng, với một tập truyện và một tập tạp bút được in lại nhiều lần, một tập thơ, một bộ tiểu thuyết với cấu tạo rất mới, hai tập tạp luận cùng có giá trị cao. Anh cũng cung cấp nhiều bản dịch xuất sắc, có giá trị lâu dài, cho nhiều tác giả quan trọng của văn học thế giới, tác giả người Pháp gốc Tiệp, tác giả Anh … Các dịch phẩm này được in đi in lại nhiều lần ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Anh còn dấn thân, đứng ra gánh vác một tạp chí văn học rồi một cơ sở xuất bản văn học có uy tín ở ngoài nước, và hiện đang lãnh trách nhiệm tại một trang web có tầm vóc về văn chương, văn học với ảnh hưởng rất lớn ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Với tâm hồn nghệ sĩ và vô cùng tài hoa, anh còn là môt cầm thủ guitare cổ điển lỗi lạc. Anh cũng sáng tác nhạc với nhiều tấu khúc cho piano, guitare, và một ít ca khúc lời Việt.
Theo nhận xét của người bạn trẻ ở San Diego đã nhắc đến ở trên, “Những trang sách của Trịnh Y Thư không những có thể giúp người đọc “luyện chí” mà còn khiến trái tim người đọc mềm lại, tỉnh lại, và rung cảm để nhận biết giây phút bình an của hiện tại và nhớ đến nhiều người khác đang cùng vạn vật muôn loài chống chọi với những gian nan đến từ sự cuồng nộ không thể tránh được của đất trời.”
Nhân dịp phát hành Theo Dấu Thư Hương II, anh bạn ấy viết rằng, “Đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đến nhà văn Trịnh Y Thư vì những đóng góp miệt mài và quý giá của ông trong lãnh vực sáng tác văn học. Trịnh Y Thư là một trong những nhà văn, thi sĩ, và dịch giả có những tác phẩm rất giá trị với thời gian.”
Đó cũng là những nhận thức của người viết những dòng này khi đọc lại các tác phẩm của Trịnh Y Thư. Tôi rất tâm đắc với đoạn sau đây trong “Lời ngỏ” cuốn Theo Dấu Thu Hương II:
“Sự cô đơn của việc đọc sách trở thành chất xúc tác cho việc định hình và tái định hình đời sống nội tâm. Đọc sách cũng khiến bật lên những khía cạnh triết học, đặc biệt là sách văn học và triết học, bởi nó giúp chúng ta tiếp cận với những câu hỏi hiện sinh như cái chết, ý nghĩa cuộc sống, tình yêu, sự vong thân. Tính cách đối đầu này chỉ có thể xảy ra trong một tâm trạng quán chiếu cô đơn; nhưng nó giúp ta đối mặt không phải trong tuyệt vọng, mà trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Tóm lại, như môt thái độ đối với sự cô đơn, không phải đối đầu lại mà hòa nhâp vào, đọc sách không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dung thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thọai.”
Đoạn trên được in lại trên trang bìa sau của Theo Dấu Thư Hương II.
Ngày 06 tháng 12 năm 2025
Trần Huy Bích