
6. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI
Các thể loại trong thơ hải ngoại được phát triển. Trong khi thơ có vần, thơ bảy chữ, thơ lục bát tiếp tục được sáng tác thì thơ tự do ngày một trở thành thể loại quan trọng nhất. Hình thức và thể loại của thơ giúp định hình các ý tưởng, sắp xếp và trình bày các ý nghĩa. Thơ là ngẫu hứng và phá cách, là sự buông thả của cảm xúc, nhưng thơ cũng nối kết các hiện thực, mang con người trở lại với nguồn gốc.
Nhiều người làm thơ Haiku như Thi Vũ, Vũ Hoàng Thư, Pháp Hoan, gây được tiếng vang.
Trên phố xá đông người
cơn mưa chiều thứ bảy
thấm dần vào áo tôi
(Pháp Hoan, Vancouver 03/2024)
Đặc biệt thể thơ dài, trường ca, hay trường thi, là một nhánh riêng, hứa hẹn. Điểm riêng biệt của trường ca là biết suy nghĩ. Tất nhiên đó không phải là suy nghĩ theo kiểu lý trí thuần túy, kiểu thơ trí tuệ. Đó là một hình thức suy nghĩ bằng hình tượng, toàn bộ cảm xúc thân xác.
Chính vì vậy trường ca đi xuyên qua vật thể, tâm hồn, lý trí hay tinh thần. Theo sau các bài thơ dài của Cao Đông Khánh, có Du Tử Lê với trường ca Mẹ về biển Đông, một thi pháp gần văn xuôi, một thành tựu nghệ thuật:
tôi tìm ra nhà quàn dễ hơn mình tưởng
ngôi nhà trắng. Những chiếc ghế sắt cũng mầu trắng
đường xe chạy uốn cong hình móng ngựa khoảng sân trong có nhà bán
hoa,
mấy tháng trước còn xanh những cây phong
nay lốm đốm đỏ
vòi nước từ chiếc bồn trước cửa toà nhà chính
phun hoài như thế chẳng biết đã bao năm
buổi sáng, ngồi nép trên chiếc ghế sắt, tôi nói với Sơn
về sự đổi mầu của lá phong
khu rừng đỏ. Những ngày học ở Indianapolis. 1969
ly cà phê. Điếu thuốc rút từ bao Winston của Sơn
mẹ tôi nằm trong chiếc quan tài mầu dưa úa. Các chị tôi nhắm mắt
chọn cho dù giá tiền khá đắt
Tiếp theo sau, hay cùng thời, nhiều người khác viết trường ca, như Trần Nghi Hoàng, với chất trữ tình bi phẫn, Đỗ Quyên, hậu hiện đại, với Lòng hải lý, Đống chữ, Ba người nữ một mùa thu, gần đây nhất là trường ca Quần-đảo-tráo-tên. Thơ anh tiêu biểu cho thi pháp hậu hiện đại- collage:
chia 50 con theo mẹ lên non
làm gì ra sao trường-ca-ca đang lu bu không đủ thời gian bàn thảo
50 con theo cha xuống bể
gây dựng duy trì bảo vệ cương vực hải đảo đại dương
số con cái này hẳn sức dài vai rộng thông lẹ kiên cường
hậu sinh hòa hợp hòa giải Binh chủng đặc công nước và Lực lượng người nhái cũng chỉ xách phao bơi theo mệt nghỉ
Phật độ lãnh hải cơ ngơi mọi sự khá chuẩn và ổn
suốt mấy ngàn năm ngót trăm triều đại hậu vua Hùng
phỉ phui xui là mới gần đây thôi từ nửa sau thế kỷ trước thiên hạ tranh chấp mấy cái bãi rạn đá chìm phân chim còn thúi hoắc hóa thành mỏ vàng hơi
Thế Dũng, từ nước Đức, viết rất, dài say đắm dữ dội về các vấn đề đất nước và người Việt lưu vong. Nguyễn Đức Tùng với tuyển tập Bầy Chim Di Trú, xuất bản ở Cali mùa hè năm 2023, là tuyển tập bảy trường ca dựa vào các nguồn cảm hứng lịch sử đương thời: sự kiện Đồng Tâm, đại dịch Vũ Hán, người tù lương tâm Phạm Đoan Trang, chiến tranh Aphganistan, sự kiện tháng Tư, các đề tài dân tộc khác.
Cuộc chiến tranh với nông dân: không bắt tù binh
Đây là thời gian
Tất cả sẽ bắt đầu
Chúng đánh vào dân tộc những đòn đau nhất
Vào mùa dịch Vũ Hán lấp ló chân trời
Khi thế giới hoảng loạn
Đánh vào tim, đánh vào ngày Tết
Vào ngày giỗ chạp, tiết thanh minh
Vào cô Kiều đi xem lễ hội
Vào ngày rằm trăng sáng mênh mông
Đánh vào dĩ vãng chiến tranh buồn thương, dĩ vãng ngọt ngào
Trên bãi bồi, chim chào mào, tu hú
Đánh vào mùa lúa mùa khoai mùa bắp
Vào người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời
Đánh tan tác tình nghĩa cha ông
Sau chiến tranh, chúng ta lại có hoà bình
Sau những năm mất mùa, chúng ta lại được mùa
Anh mất em, anh lại trở về
Tình yêu bén lửa
(Bài Thơ Đồng Tâm)
Đó là sự khai phá một thể loại ít được biết đến trước đây, có khả năng nói về đề tài dân tộc, lịch sử. Trong khi đó, thơ xuôi là một khuynh hướng phát triển mạnh mẽ hơn cả trong thơ đương đại thế giới, toan tính xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thơ, giữa các thể loại truyện ngắn, tùy bút, kịch, thơ, tiểu luận. Các tác phẩm của Anne Carson hay Lydia Davis, lừng danh, không thể xếp loại dễ dàng là thơ hay truyện.
Thơ Tân hình thức: những người giới thiệu và xiển dương thơ Tân hình thức, đặc biệt nhà thơ Khế Iêm, đã làm dấy lên một phong trào đổi mới hình thức, khoảng những năm đầu thế kỷ 21 ở California, lắng xuống một thời gian, rồi hồi phục trở lại khi được giới thiệu rộng rãi trong nước, với sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều nhà thơ trẻ và tài năng, nhất là những nhà thơ quy tụ quanh tạp chí Sông Hương, và đồng thời, trên tờ báo giấy cũng do Khế Iêm chủ trương, ra hai tháng một kỳ.
Con mèo đen có linh hồn và chiếc
xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức
dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi
sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;
con mèo đen có đôi mắt bằng đất
sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ
mở ra và không bao giờ nhắm lại
Tôi nghĩ trường ca, thơ xuôi, thơ tân hình thức, xét về thể loại và đề tài, có thể đem đến những đóng góp mới cho thơ Việt hôm nay, hải ngoại và trong nước. Trong khi đi tìm cách diễn đạt cho những cảm xúc và sự thay đổi nội tâm, nhà thơ đi tìm từ ngữ mô tả hiện thực đã trải qua và thế giới thực tại, các từ ngữ ấy bắt buộc có tính cụ thể vì chúng xuất phát từ đời sống, các chữ ấy lại được gọi về, sắp xếp trong các quy luật của vần điệu, âm nhạc, tuy không chặt chẽ như trong các ca khúc nhưng cũng đủ để tạo lập nhịp điệu riêng biệt cho từng bài thơ nhằm phản ánh hiện thực thông qua hình ảnh. Bởi vì sự thật trong thơ ca là một thứ biểu tượng. Con người trải qua mất mát được an ủi bằng chính ngôn ngữ của sự mất mát. Khi một người thân bị mất, chính các hình thức tang lễ, tức là các pháp cách giúp cho sự mất mát ấy được thăng hoa, được chiếu đi chiếu lại trong tấm gương của ý thức và vô thức. Tang lễ không làm một người chết sống lại, cũng như thơ ca không làm cho một quê hương đánh mất được hồi sinh trở lại, tuy vậy sự đánh mất ấy, sự xa lìa ấy, bằng tang lễ, bằng thơ ca, trở thành một kinh nghiệm sống động, trở thành một bài ca được hát đi hát lại nhiều lần, xoa dịu, sưởi ấm, làm cho sự đánh mất trở nên chịu đựng được.
Vì vậy nghi thức là một liệu pháp, thơ ca là một liệu pháp. Chính là bằng nghi thức mà con người được tự do. Mối quan hệ giữa các nhà thơ hải ngoại với nền văn học trong nước được biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tùy hoàn cảnh của họ. Những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống văn học miền Nam, những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống miền Bắc, những người vượt tường ở Đông Âu, những người ra đi khi đã lớn, học hành trong nước sau năm 1975, và những người viết sinh ra và lớn lên ở hải ngoại. Những nhóm người này, được quy định bởi lịch sử, sẽ có những tâm thức và ứng xử khác nhau. Một mảnh đất chung dành cho họ là mảnh đất được vun xới bởi thơ trữ tình. Khi cái tôi trữ tình lên tiếng, nó được dễ dàng chia sẻ.
Tôi biết Czeslaw Milosz nhà thơ giải Nobel sống lâu ở Hoa Kỳ, dạy học ở đó, viết gần một nửa số thơ của ông bằng tiếng Anh, nhưng người Ba Lan vẫn xem ông nhà thơ Ba Lan. Nếu so sánh cộng đồng người Việt hải ngoại và những cộng đồng lưu vong khác như Trung Hoa, Triều Tiên, Do Thái, Ả Rập hay Ukraina, về mặt văn học, qua các tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang tiếng Anh, có thể nhận thấy một số khác biệt sau đây. Mặc dù những người tị nạn hay lưu vong đến từ các đất nước ấy vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng của họ, các tác giả góp phần rất lớn vào việc dịch từ ngôn ngữ của họ sang tiếng Anh. Tôi nhận thấy trong những bài thơ dịch sang tiếng Anh có vai trò tham gia của tác giả.
Các thế hệ tiếp nối của các dân tộc lưu vong có những khoảng cách đối với nhau không quá xa như ở người Việt. Ở người Việt có một khoảng cách quan sát được giữa những người tham gia chiến tranh, bị tù đày ở trong nước và những người hoặc sinh ở hải ngoại. Ở thế hệ thứ hai và thứ ba này, quá trình hội nhập xảy ra mau lẹ nhưng đột ngột, cắt đứt với truyền thống. Những thế hệ về sau thậm chí không còn tự xem mình là người Việt nữa.
Dù sao, thơ trữ tình được viết bằng thể thơ cổ điển vẫn sống:
Ở đây sầu đã tan tành
Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi
Viên Linh
khói hương hương khói nhạt nhòa
nhòa nhạt hương khói vẫn là khói hương
khóc người, chưa dám nhớ thương
nhưng đã dám đốt nỗi buồn làm hương
Luân Hoán
Thơ tình hải ngoại kế tiếp truyền thống của thơ tình miền Nam, nhưng ở một số tác giả mới viết gần đây, cũng như những tác giả đến từ Đông Âu các ảnh hưởng khác của thơ tình miền Bắc không phải là không đậm đà.
Trong thơ có một khái niệm gọi là sự thân mật. Đây là sự gần gũi có tính riêng tư của nhà thơ đối với các sự vật được mô tả, và trong trường hợp thơ tình, các bài thơ đều có tính chất tương giao giữa người và người, là bài ngợi ca, là khúc nhạc yêu đương say đắm, là lời oán than, nỗi tiếc thương ngậm ngùi hay đau đớn. Những phẩm chất riêng của tình yêu nam nữ, tâm hồn, thể chất, tinh thần, luân lý, tâm lý, hoàn cảnh lịch sử, tất nhiên cũng là đối tượng của thơ tình. Tình dục là một đề tài mới mẻ trong thơ hải ngoại. Trong thơ tiền chiến và thơ cả hai miền Nam Bắc trước 1975, có thể nói trong thơ không có tình dục. Đây là điều đặc biệt: vì trong truyện ngắn và tiểu thuyết thì chúng có.
Thơ tám chữ mà mới như Vũ Quỳnh Hương.
Hãy tới hãy tới hãy tới Halfmoon Bay với anh
Ở một nơi trăng biếc gió xây thành
Ðêm và mộng và anh cùng ước hẹn
Ở Halfmoon Bay màu trắng rất xanh
Chúng ta biết tình yêu có thể phải thay đổi, có lúc bùng lên có lúc nhạt đi, rằng thời thế có thể làm cho tình yêu tan vỡ, rằng giá trị của một mối tình có thể không thể nào minh chứng được, rằng sự chung thủy của tình yêu là đáng nghi ngờ, rằng đau thương của nó là vô hạn, mặc dù thế tôi tin đó là thứ tình cảm mãnh liệt lâu bền nhất, quyết định nhất số phận một người, hạnh phúc của người đó, và do đó mà ở mức độ tập thể, là cái quan trọng nhất của một lịch sử, một cộng đồng, là dấu vết để lại trên đường đi của một giống người.
Các yếu tố thuộc về khuynh hướng làm cho thơ hải ngoại trở thành một nền thơ cách tân gồm có: yếu tố nữ quyền, thái độ chính trị, yếu tố tình dục, chủ nghĩa hậu hiện đại, thơ tân hình thức, sự dung hợp các luồng ngôn ngữ Nam Bắc, trong ngoài, tiếng Việt và sinh ngữ, sự đưa vào được ở những mức độ khác nhau không khí sống động của một đời sống bên ngoài biên cương tổ quốc, sự tiếp tục làm mới do ảnh hưởng của văn chương thế giới.
Kế thừa truyền thống của chủ nghĩa hiện đại trong thơ miền Nam trước đây, thơ hải ngoại mang tính chất pha trộn của chủ nghĩa lãng mạn tiền chiến, chủ nghĩa hiện đại, phương pháp sáng tác hiện thực, trong những năm đầu tiên. Kể từ cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa hậu hiện đại hiện diện trong sáng tác của các nhà thơ hải ngoại và sau đó lan tỏa vào trong nước, sau một thời kì ngắn bị chê bai dữ dội, về mặt học thuật. Tuy nhiên xét về mặt học thuật, do trong nước có nhiều điều kiện hơn, nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp hơn, một khi được chấp nhận hoặc ít nhất không bị nhà nước cấm đoán, chủ nghĩa hậu hiện đại liền được nghiên cứu một cách hệ thống. Trong khi đó, đồng thời và có thể trước đó, phương pháp sáng tác hiện thực kỳ ảo (magic realism) được giới thiệu trong nước sớm hơn với tiểu thuyết của nhà văn lừng danh Garcia Marquez. Nhiều người không nhớ rằng thực ra nhiều năm trước đó, chủ nghĩa này, trong văn học châu Mỹ la tinh, còn được giới thiệu bởi dịch giả Đỗ Khánh Hoan, người dịch Tagore trước đây ở miền Nam. Các dịch phẩm của Đỗ Khánh Hoan không được mấy người biết.
(còn nữa)
Nguyễn Đức Tùng
*Nguyễn Đức Tùng: Nửa thế kỷ thơ Việt hải ngoại (Kỳ 1)
*Nguyễn Đức Tùng: Nửa thế kỷ thơ Việt hải ngoại (Kỳ 2)