Quan Nguyên: Những Vũ Khí Thầm Lặng Chống Lại Hệ Thống Giám Sát VNeID

Tác giả: Quan Nguyên

Hình: Bức tranh “The Refugee” (Người tị nạn, 1939) của Felix Nussbaum (1904–1944) (1)

VNeID là ứng dụng định danh điện tử quốc gia do Bộ Công an phát triển từ 2021, thay thế dần căn cước công dân giấy và sổ hộ khẩu, hiện tích hợp hơn 100 dịch vụ công như đăng ký xe, nộp phạt, khai báo y tế, lý lịch tư pháp. Đề xuất mới nhất dự thảo Nghị quyết 202) bổ sung “Hệ thống Điểm công dân số” trên VNeID: chia dân thành 3 hạng (“tích cực” ≥350 điểm: giảm 10-100% thuế/phí khi dùng VNeID, “Cơ bản” 100-349 điểm: ưu đãi hạn chế, “Chưa xếp hạng” <100 điểm: không ưu đãi). Bộ Công an quảng bá rằng đây là “khuyến khích số hóa”, không xử phạt. (2)

VNeID kế thừa trực tiếp các chính sách quyền lực và kiểm soát công dân truyền thống: sổ hộ khẩu kiểm soát di cư và hộ tịch (1955); hộ chiếu nội bộ thời chiến; lý lịch chính trị; rồi chuyển sang căn cước công dân gắn chip (2016) và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư do bộ Công an quản lý (2020). Những công cụ này tạo nền tảng dữ liệu cá nhân tập trung, từ giấy sang số, với logic “hồ sơ hóa” để nâng cấp VneID thành công cụ xếp hạng công dân dựa vào nền tảng kết nối mọi giao dịch giữa công dân hay doanh nghiệp với nhà nước. (3)

Vào cuối tháng 12/2025, Bộ Công an lặng lẽ đưa dự thảo Nghị quyết về “phát triển công dân số” lên các cổng thông tin chính sách. Ban đầu chỉ là văn bản kỹ thuật, dự thảo mô tả VNeID như “siêu nền tảng quốc gia”, chia hạng công dân và được quảng bá là “khuyến khích số hóa”, không xử phạt, ưu đãi thuế và phí cho dân có điểm cao. Chỉ vài ngày sau (19-20/12), các báo lớn như VnExpress, Tuổi Trẻ, Tiền Phong, Lao Động, Người Lao Động đồng loạt đăng tin, biến dự thảo thành “tin nóng quốc gia”. Báo Chính phủ nhấn mạnh hệ thống điểm số nầy “tuân thủ Hiến pháp, không hạn chế quyền”, trong khi dư luận bắt đầu lên tiếng.

Tạp chí Luật Khoa có bài phê phán đề xuất chấm điểm qua VneID. Một bài tóm tắt chi tiết dự thảo của Bộ Công an (lấy ý kiến 12-31/12), nhấn mạnh cơ chế chia công dân thành 3 hạng trên VNeID; và thái độ của Bộ Công an khẳng định “không xử phạt, không hạn chế quyền”. Một bài khác phân tích tranh cãi dư luận (từ thắc mắc người già đến chỉ trích phân tầng xã hội), chất vấn Bộ Công an dùng Nghị quyết Chính phủ thay luật Quốc hội để tạo cơ chế ảnh hưởng quyền cơ bản (Hiến pháp quy định bình đẳng, không phân biệt). Tác giả cảnh báo nguy cơ vi hiến, thiếu giám sát, mở đường về việc sao chép hệ thống xếp hạng công dân của Trung Quốc, kêu gọi Quốc hội tham gia làm luật thay vì bị “vượt quyền” bởi Bộ Công an; nhấn mạnh dự thảo đụng chạm quyền con người mà không minh bạch thuật toán và cơ chế về khiếu nại. (4) (5)

Ông Trần Văn trong bài lan truyền rộng rãi trên Facebook mở đầu bằng hình ảnh Bộ Công an “vừa giới thiệu ý tưởng dùng VNeID phân công dân thành ba hạng”, nghe thì “khuyến khích số hóa” nhưng thực chất biến quyền lợi thành đặc ân – ai điểm cao được giảm thuế phí, ưu tiên thủ tục, còn người ngoài hệ thống bị loại trừ dần. Ông kể chuyện một người dân nghèo vùng sâu, không smartphone, không biết dùng app, tự nhiên thành “công dân hạng thấp”, khó tiếp cận nhà nước, trong khi cán bộ và quan chức dễ “max điểm” nhờ vị thế; từ đó dẫn đến bi kịch lớn hơn: “Xếp hạng công dân và làm người sẽ rất khó!”, vì quan hệ công dân – nhà nước bị méo mó, quyền trở thành phần thưởng cho sự “ngoan ngoãn”, gợi nhớ xã hội phân tầng kiểu phong kiến hiện đại.

BBC trích ý kiến chuyên gia: ban đầu nghe “khuyến khích số hóa”, nhưng dễ trượt thành hệ thống xếp hạng công dân của Trung Quốc, nơi điểm số quyết định quyền lợi đời sống; đồng thời dẫn lời Bộ Công an khẳng định “không xử phạt, tuân thủ Hiến pháp”, song dư luận lo ngại người già, người ở vùng sâu vùng xa hay những người dễ bị tổn thương bị loại trừ, biến quyền thành “đặc ân số” ban phát bởi Bộ Công an. (6)

Viết trên Tạp Chí Thế Kỷ Mới, ông Nguyễn Mậu Chính phê phán sâu sắc đề xuất chấm điểm công dân qua VNeID của Bộ Công an, coi đây không chỉ là công cụ hành chính mà là mô hình quyền lực nguy hiểm, biến “luật rừng” thành quy định hợp pháp. Ông lập luận rằng hệ thống này xuất phát từ trực giác quyền lực và kiểm soát xã hội, phụ thuộc nặng nề vào công nghệ Trung Quốc (công nghệ máy tính, dữ liệu sinh trắc, mống mắt), tạo rủi ro an ninh quốc gia nghiêm trọng như xâm lược dữ liệu hay vũ khí hóa sinh học. Ngoài ra, ông chỉ ra nghịch lý thực tế: thiếu điện quốc gia (hạn chế tiêu thụ điện ở miền Bắc) nhưng vẫn vẽ trung tâm dữ liệu khổng lồ, có thể là “chấm mút ngân sách” hoặc đảo ngược ưu tiên quốc gia từ sản xuất sang duy trì quyền lực. (7)

Ở tầng sâu hơn, ông Nguyễn Mậu Chính so sánh với hệ thống xếp hạng của Bộ Công an và hệ thống tương tự của cơ quan mật vụ Gestapo thời Đức Quốc Xã (hồ sơ hóa đáng ngờ thay vì bạo lực trực tiếp), cảnh báo logic quyền lực nội tại: điểm số tạo khác biệt khả năng tiếp cận nhà nước của dân (ưu tiên thủ tục, quyền lợi), bào mòn bình đẳng pháp lý mà không cần trừng phạt công khai. Ông chất vấn quy trình lập pháp (Bộ Công an tự tung tự tác, bỏ qua Quốc hội), tính công bằng (áp dụng cho dân hay miễn quan chức?), và kêu gọi minh bạch báo cáo năng lượng/an ninh dữ liệu. Cuối cùng, đây là canh bạc mất tự do, biến niềm tin vào “đảng” thành chỉ số, nơi công nghệ áp đặt quyền lực lên mỗi công dân một cách “im lặng và trơn tru hơn”. (7)

Hệ thống xếp hạng công dân do Bộ Công an đề xuất có xuất xứ từ Trung Quốc và bởi vậy sẽ phải đối mặt với những thách thức tương tự: 1) sự bất đồng quan điểm tiềm tàng, 2) sự phân mảnh trong bộ máy hành chính và 3) những thiếu sót về cơ sở hạ tầng dữ liệu. (8)

Một dự án xếp hạng công dân ở Tùy Ninh Trung Quốc gặp phản ứng dữ dội từ người dân và các báo chính, dẫn đến việc triển khai nầy bị bãi bỏ. Đã có những thảo luận sôi nổi trên Reddit về đề xuất của Bộ Công an. Chưa giống như những phản ứng về luật đặc khu những năm 2015, chưa có các cuộc biểu tình lan rộng nào, nhưng việc bỏ qua Quốc hội để thông qua nghị quyết của chính phủ có nguy cơ làm gia tăng sự phản đối về vấn đề quyền riêng tư và bất bình đẳng.

Giống như Trung Quốc, cấu trúc một đảng của Việt Nam đang bộc lộ những căng thẳng cố hữu giữa trung ương và địa phương. Bộ Công an tuy nắm quyền chủ đạo trong đề xuất này, nhưng lại thiếu sự đồng thuận sâu rộng từ cơ quan lập pháp – Quốc hội và các tỉnh. Cộng thêm là thực trạng hạ tầng công nghệ số được triển khai chập chững và không đồng đều khắp cả nước. Tất cả những yếu tố này đang tạo nên một bức tranh đầy lo ngại về sự phân mảnh ngay từ bên trong hệ thống.

Bài học từ Trung Quốc cũng là một lời cảnh báo sống động. Ở đó, hệ thống xếp hạng công dân thực ra là một hệ sinh thái với nhiều cách triển khai khác nhau trong các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp lớn. Nhiều nơi áp dụng việc xếp hạng công dân theo cách riêng, dẫn đến tình trạng thực thi không nhất quán – một người có thể bị trừng phạt ở thành phố này nhưng lại không hề bị ảnh hưởng ở thành phố khác. Nếu Việt Nam không giải quyết được sự thiếu đồng thuận trong bộ máy nhà nước và sự chênh lệch về năng lực công nghệ giữa các địa phương, đất nước có thể sẽ lặp lại vết xe đổ của Trung Quốc: một hệ thống sắp hạng công dân bị phân mảnh, thực thi thiếu nhất quán, cuối cùng làm suy yếu cả uy tín lẫn hiệu quả của chính hệ thống đó.

VNeID mang trong mình tham vọng trở thành một “siêu ứng dụng” tích hợp hệ thống chấm điểm, ví điện tử, email và vô số tiện ích khác. Tuy nhiên, phía sau tầm nhìn hoành tráng này là một thực tế khá trớ trêu: Việt Nam đang vật lộn với bài toán tích hợp dữ liệu toàn quốc, khi thông tin vẫn nằm rải rác như những hòn đảo biệt lập giữa các bộ, ngành và địa phương. Thêm vào đó, việc mở rộng quy mô từ các chương trình thí điểm ra toàn quốc đang gặp nhiều trở ngại do sự bao phủ công nghệ hạn chế và thiếu khả năng phối hợp giữa các cơ quan.

Những phản biện trên Reddit chỉ ra những minh chứng cụ thể: các tuyến metro chưa hoàn thiện, hệ thống thủ công với giấy tờ và con dấu đỏ vẫn phổ biến trong nhiều cơ quan nhà nước. Để xây dựng một hệ thống VNeID hoàn chỉnh, cần có nền tảng hạ tầng vật chất và số vững chắc – hệ thống thanh toán điện tử phủ rộng, dữ liệu kết nối liền mạch. Việt Nam hiện vẫn đang trong hành trình xây dựng những nền móng này, và khoảng cách giữa tham vọng “siêu ứng dụng” với thực tế triển khai vẫn còn rất xa, không chắc thể chế hiện tại có thể lấp đầy.

Trong quan hệ giữa nhà nước và dân, đôi khi những người tưởng chừng yếu thế lại có thể tạo ra những trở ngại bất ngờ. Người dân và các tổ chức xã hội dân sự có thể khuếch đại những rào cản đối với hệ thống xếp hạng công dân thông qua những chiến thuật dựa trên bằng chứng – như 1) định hình thông tin để làm nổi bật tiềm năng áp bức, 2) các chiến dịch truyền thông vạch trần rủi ro, và 3) vận động có hệ thống để khai thác những kẽ hở trong bộ máy quan liêu bị phân mảnh. Đây không phải là cuộc đối đầu trực diện, mà là nghệ thuật bào mòn – kiên trì, khôn khéo, và dựa trên sức mạnh của sự thật.

Chiếu Sáng Những Rủi Ro Áp Bức: Khi Sự Thật Là Vũ Khí Mạnh Nhất

Các thí nghiệm thực địa đã cho thấy một điều thú vị: khi người dân được tiết lộ rõ ràng về việc hệ thống sắp hạng công dân có thể bị sử dụng để áp bức có mục tiêu – ví dụ như cấm những người bất đồng chính kiến đi lại, mua vé máy bay, tàu cao tốc – thì sự ủng hộ của công chúng vào hệ thống nầy sẽ giảm mạnh. Điều này xảy ra bởi vì người ta bắt đầu nhìn thấy những hình thức cưỡng ép “âm thầm” thay vì chỉ tập trung vào những lợi ích về trật tự mà truyền thông nhà nước thường xuyên ca ngợi. Ở Việt Nam, các diễn đàn trực tuyến như Reddit đã bắt đầu định hình VNeID như một công cụ giám sát có thể tạo ra bất bình đẳng, giống như cách mà sự phản đối đã được khuếch đại và dẫn đến sự thất bại trong việc triển khai dự án ở Tùy Ninh, Trung Quốc. Khi câu chuyện không còn là “an ninh và tiện lợi” mà trở thành “ai đang theo dõi tôi và họ có thể làm gì với dữ liệu của tôi“, thì cán cân tâm lý công chúng bắt đầu nghiêng về phía hoài nghi.

Chiến Dịch Truyền Thông Và Huy Động Cộng Đồng: Sức Mạnh Của Đám Đông Thông Minh

Hãy nhìn vào câu chuyện của các nhà hoạt động Serbia  họ đã thành công trong việc ngăn chặn dự án lắp đặt camera Huawei của Trung Quốc bằng cách nào? Bằng việc theo dõi có hệ thống thông qua cộng đồng, phơi bày việc lắp đặt camera qua các phương tiện truyền thông, và thậm chí biến sự phản kháng thành “thương hiệu” với khẩu hiệu #”ngàn chiếc camera” để có chi phí hầu duy trì các hoạt động pháp lý. Điều thú vị là họ tạo áp lực lên các quan chức mà không cần đối đầu trực tiếp  một nghệ thuật tinh tế trong bối cảnh chính trị nhạy cảm. Các nhóm bên nhà có thể dùng chiến thuật này: lập bản đồ về luồng dữ liệu của VNeID, theo dõi tác động của các chương trình thí điểm, và tận dụng các phương tiện truyền thông quốc tế để chiếu sáng vấn đề xói mòn quyền riêng tư. Khi ánh đèn quốc tế chiếu vào, chính phủ thường phải dừng lại để đánh giá lại, ít nhất là tạm thời. (9)

Khai Thác Sự Phân Mảnh: Biến Điểm Yếu Thành Cơ Hội

Đài Loan đã cung cấp một bài học quý giá về cách xã hội dân sự có thể hợp tác với chính phủ. Các tổ chức xã hội dân sự Đài Loan đã làm việc với chính quyền để xây dựng hệ thống phòng thủ an ninh mạng chống lại ảnh hưởng từ Trung Quốc đại lục. Các tổ chức như Doublethink Lab và các nhóm công nghệ dân quyền (civic tech) đóng vai trò nòng cốt trong việc phát hiện và phân tích các nguồn tin giả từ nước ngoài. Áp dụng vào bối cảnh Việt Nam, các kiến nghị thúc giục Quốc hội xem xét lại các đề xuất của Bộ Công an có thể làm sâu sắc thêm những rạn nứt giữa trung ương và địa phương. Khi Bộ Công an “vượt rào” bỏ qua các nhà lập pháp, điều này có thể gây ra sự bất mãn trong giới tinh hoa  – giống như những lần trước đây khi dân đã quay lưng với những chính sách thiếu minh bạch. Đây chính là cách biến sự phân mảnh nội bộ của hệ thống thành một công cụ để tạo ra không gian cho tiếng nói công dân. (10)

Áp Lực Quốc Tế: Khi Lời Nói Cần Đi Kèm Hành Động

Các tổ chức phi chính phủ đã kêu gọi áp dụng các biện pháp trừng phạt thương mại song song với vận động, bởi vì chỉ riêng lời nói thôi là không đủ. Trong những bối cảnh áp bức như Việt Nam – nơi các nhà hoạt động thường xuyên đối mặt với các cuộc truy quét thuế hoặc cáo buộc hình sự – việc đa dạng hóa nguồn tài trợ và xây dựng mối quan hệ với các cơ quan thực thi pháp luật quốc tế có thể giúp giảm thiểu sự quấy rối. Điều này không chỉ giúp duy trì hoạt động của các tổ chức mà còn khuếch đại những khoảng trống trong cơ sở hạ tầng của hệ thống giám sát thông qua sự giám sát toàn cầu. Khi cộng đồng quốc tế chú ý, khi các tổ chức quốc tế đặt câu hỏi, khi áp lực thương mại xuất hiện – đó là lúc những người trong nước có thêm không gian để thở, để tiếp tục công việc của mình, và để làm chậm lại bộ máy giám sát đang được xây dựng.

Kết luận

Những vũ khí thầm lặng nhưng bền bỉ nhất trước VNeID lại nằm ở phía mà nhà nước ít chú ý nhất: tâm lý xã hội và những vết nứt bên trong chính hệ thống. Khi người dân được nhìn rõ mặt thật của một cơ chế xếp hạng công dân – từ “khuyến khích số hóa” sang nguy cơ bị trừng phạt mềm, bị chấm điểm vì thái độ chính trị hay chỉ vì… không có smartphone – thì những lời hứa về tiện lợi, trật tự sẽ không còn đủ sức che phủ nỗi lo về bất bình đẳng và giám sát. Các chiến dịch định nghĩa lại câu chuyện (từ “siêu ứng dụng” sang “công cụ theo dõi”), những tranh luận trên mạng xã hội, các bài phân tích pháp lý, và cả sự so sánh với thất bại ở Tùy Ninh, Trung Quốc, đều góp phần dịch chuyển cán cân dư luận theo hướng hoài nghi – đó là dòng nước nhỏ nhưng gặm mòn dần tính chính danh của dự án xếp hạng công dân.

Vũ khí còn lại đến từ khả năng “bẻ lái” cấu trúc quyền lực bằng chính những chuẩn mực mà nhà nước đã cam kết với thế giới. Khi xã hội dân sự biết tận dụng sự phân mảnh giữa trung ương và địa phương, giữa Bộ Công an và Quốc hội, giữa các cam kết EVFTA/CPTPP và thực tiễn triển khai VNeID, mỗi kiến nghị, mỗi báo cáo gửi đối tác quốc tế, mỗi cuộc vận động trong hành lang nghị trường đều có thể biến thành một điểm tựa để làm chậm, làm nhỏ hoặc buộc sửa lại hệ thống. Kết hợp với áp lực từ bên ngoài – giám sát nhân quyền, điều kiện thương mại, mạng lưới bảo vệ nhà hoạt động – những “vũ khí mềm” ấy không lập tức phá hủy được VNeID, nhưng có thể buộc nó phải lộ rõ giới hạn, chấp nhận ràng buộc pháp lý nghiêm ngặt hơn, và mở thêm khoảng trống cho tiếng nói công dân chen vào giữa bộ máy giám sát đang được dựng lên.

Quan Nguyên

………………

Nguồn:

1.         1944 FN-. The Refugee, 1939 Xem 29/12/2025 https://wwv.yadvashem.org/yv/en/exhibitions/nussbaum/refugee.asp.

2.         Báo Điện Tử Chính Phủ. Bộ Công an đề xuất xếp hạng và chấm điểm công dân số trên VNeID 26/12/2025 https://baochinhphu.vn/bo-cong-an-de-xuat-xep-hang-va-cham-diem-cong-dan-so-tren-vneid-102251226190849614.htm.

3.         Hệ thống Tư liệu – Văn kiện Đảng. 7 phương thức sử dụng thông tin thay sổ hộ khẩu 03/01/2023 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/home/chu-truong-chinh-sach-moi/7-phuong-thuc-su-dung-thong-tin-thay-so-ho-khau-3884.

4.         Luật Khoa Tạp Chí – Trường Tộ. Dự thảo mới: Bộ Công an muốn chấm điểm và xếp hạng công dân qua VNeID 19/12/2025 https://luatkhoa.com/2025/12/du-thao-moi-bo-cong-an-muon-cham-diem-va-xep-hang-cong-dan-qua-vneid/.

5.         Luật Khoa Tạp Chí – Trường An. Làm luật chấm điểm công dân nhưng không chờ Quốc hội: Bộ Công an có vi hiến? 26/12/2025 https://luatkhoa.com/2025/12/lam-luat-cham-diem-cong-dan-nhung-khong-cho-quoc-hoi-bo-cong-an-co-vi-hien/.

6.         BBC. Vì sao Bộ Công an Việt Nam muốn xếp hạng công dân số? 22/12/2025 https://www.bbc.com/vietnamese/articles/ce3z7evqwepo.

7.         Tạp Chí Thế Kỷ Mới. Nguyễn Mậu Chính: Chiến thuật biến luật rừng thành quy định hợp pháp… 27/12/2025 https://thekymoi.media/nguyen-mau-chinh-chien-thuat-bien-luat-rung-thanh-quy-dinh-hop-phap-22569/.

8.         Creemers R. China’s Social Credit System: an evolving practice of control. Available at SSRN 3175792. 2018.

9.         SHARE Foundation. Living under the watchful eye: Implications of facial recognition surveillance in Serbia 2019 https://giswatch.org/node/6188.

10.      Youtube video. Taiwan’s Initiatives for Civil Defense amid an Increasing Threat Environment Xem ngày 29/12/2025 https://www.youtube.com/watch?v=zV6YTjz0mbQ&t=136s.

Có thể bạn cũng quan tâm