

Trái: Mít tinh tại Nhà Hát Lớn Hà Nội ngày 17/8/1945. Diễn giả chính Nguyễn-khoa-diệu-Hồng (nữ, tổ chức Việt Minh) và diễn giả Ngô-quang-Châu (nam, Đảng Dân-Chủ) và Từ-ngọc-Trang (nữ, Thanh niên Hoàng-Diệu). Nguồn ảnh: wiki commons. Phải: Tổng khởi nghĩa hay ngày Việt Minh cướp chính quyền 19/8/1945 tại Hà Nội, ảnh chụp mặt tiền Bắc Bộ Phủ, phố Ngô Quyền, Hà Nội. Nguồn ảnh: wiki commons
Nhà nước Cộng sản Việt Nam hôm 2 tháng Chín đã kỷ niệm 80 năm Quốc Khánh.
Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc hiện sống ở Úc có bài viết ngắn đăng trên facebook của ông với tựa đề MỘT NỬA SỰ THẬT.
Nguyễn Hưng Quốc viết, “nhân ngày 2 tháng 9, trên các phương tiện truyền thông đại chúng tại Việt Nam, nhà nước Hà Nội ra rả kể công, chẳng hạn, thứ nhất, nhờ họ mà đất nước được thống nhất, nhưng họ lại giấu đi một số sự thật khác. Đó là vì họ mà hai miền Nam Bắc lâm vào cảnh chiến tranh ròng rã cả hai chục năm với khoảng ba triệu người chết.
Thứ hai, nhờ chính sách đổi mới của họ mà kinh tế Việt Nam được phát triển, nhưng họ lại cũng giấu đi một sự thật khác: vì những chính sách điên cuồng của họ trước đó mà nhân dân cả nước bị đẩy xuống tận đáy sâu của sự khốn cùng.
Thứ ba, Việt Nam đang ở trong kỷ nguyên “vươn mình” ngang tầm thời đại mà lại giấu đi một sự thật: Việt Nam là một trong những quốc gia bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận trầm trọng nhất trên thế giới.”
Trong nước thì như thế. Còn tại hải ngoại, hôm 16 tháng 8 vừa qua, một nhóm người trẻ thuộc tổ chức tên là VietRise đã tổ chức một buổi picnic mùa hè ngay tại quận Cam miền nam California nói về Cách Mạng Tháng 8 và Hồ Chí Minh.
Trong buổi picnic, nhóm VietRise đã phân phát các flyer nội dung vinh danh điều mà họ gọi là “thành tích” của Việt Minh đã mang lại chủ quyền dân tộc cho Việt Nam và đã “thành công” ra sao.” Một số tổ chức của cộng đồng tỵ nạn và một số cá nhân đã lên tiếng về buổi picnic này do VierRise tổ chức.
GS Trần Huy Bích viết:
Ý NGHĨA CÁC NGÀY 19 THÁNG 8 VÀ 2 THÁNG 9 ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
Hàng năm, cứ đến tháng 8 dương lịch là chế độ Cộng sản Việt Nam tưng bừng tổ chức ăn mừng ngày 19 tháng 8, ngày họ cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, và ngày 2 tháng 9, ngày ông Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại công trường Ba Đình, Hà Nội. Ít hàng phía sau nhằm cung cấp chút hiểu biết cần thiết cho một số bạn ở thế hệ trẻ, những người chưa có hoàn cảnh biết nhiều về hai sự kiện lịch sử ấy.
Những người Cộng sản Việt Nam cũng luôn luôn rêu rao rằng họ có công lãnh đạo dân tộc trong hai cuộc chiến tranh lớn: 1) Đánh Pháp để giành độc lập, và 2) Đánh Mỹ để thống nhất đất nước. Vì thế họ có quyền – và được độc quyền – lãnh đạo đất nước. Họ đồng hóa thể chế của họ với Tổ quốc Việt Nam. Ở trong nước, ai lên tiếng phê phán chế độ sẽ bị ghép vào tội phản quốc.
Năm nay 2025, đúng 80 năm sau khi những người Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền năm 1945 và đưa dân tộc vào hai cuộc chiến tranh thảm khốc, tuy chấm dứt năm 1975 nhưng hậu quả và tình trạng phân hóa tới nay vẫn còn trầm trọng, chúng ta cũng nên bình tâm xét lại thực chất của cuộc “cách mạng” cùng nguyên do của hai cuộc chiến tranh ấy, rồi nhận định một cách khách quan xem công nghiệp của đảng Cộng sản Việt Nam lớn đến mức nào.
I. “Đánh Pháp để giành độc lập”
Sau khi Thế chiến thứ 2 (World War II) chấm dứt năm 1945, các cường quốc Âu Mỹ ý thức được rằng trong hoàn cảnh mới, việc tiếp tục giữ các nước châu Á làm thuộc địa là điều không chấp nhận được nữa. Chế độ thuộc địa đã đến lúc phải cáo chung. Vì thế:
–Hoa Kỳ trả độc lập cho Philippines. Philippines tuyên bố độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1945.
–Anh trả độc lập cho Ấn Độ. Ấn Độ độc lập từ năm 1947.
–Anh trả độc lập cho Miến Điện (tên cũ Burma, tên hiện nay Myanmar). Miến Điện độc lập từ tháng 1-1948.
–Anh trả độc lập cho Mã Lai (tên cũ Malaya, tên hiện nay Malaysia). Vốn do nhiều tiểu bang hợp lại, khung cảnh chính trị có phần phức tạp, Mã Lai được tự trị năm 1948, và hoàn toàn độc lập năm 1957.
–Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương. Lúc đầu, giới thực dân Hòa Lan tham lam không chịu trả, dân Nam Dương phải tranh đấu bằng võ lực trong 4 năm. Sau nhờ áp lực của thế giới, nhất là từ Hoa Kỳ, Nam Dương được hoàn toàn độc lập từ tháng 12-1949.
–Dân tộc duy nhất ở châu Á phải tranh đấu gian khổ đến năm 1954 và sau đó, đất nước bị chia cắt, là Việt Nam. Tuy có cảm tình với nền độc lập của Việt Nam, Hoa Kỳ đã không làm áp lực với chính phủ Pháp như đã làm với chính phủ Hòa Lan tại Nam Dương, không ép họ phải trả độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Lý do: Đó là một chính thể Cộng sản, và Hồ Chí Minh với nhiều bí danh khác nhau, đã được phát hiện là một chuyên viên của Cộng sản quốc tế, từng được huấn luyện ở Nga. Theo Gs. Tường Vũ, trong cuốn Vietnam’s Communist Revolution (New York: Cambridge University Press, 2017), sau khi tìm đọc kỹ lưỡng trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập của chế độ Cộng sản Hà Nội, vị giáo sư Chính trị học và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Á châu tại University of Oregon đã phát hiện rằng ngay từ đầu năm 1949, trước khi Mao Trạch Đông thành công ở Trung Hoa, chính thể Hồ Chí Minh đã công khai đứng về phía Cộng sản quốc tế (Nga, Cộng sản Trung Hoa), và kịch liệt đả kích “chủ nghĩa đế quốc” (chỉ Hoa Kỳ) (các trang 108-109). Tuy cộng tác với môt số sĩ quan OSS của Hoa Kỳ năm 1945, tuy dùng một tấm hình mang chữ ký của tướng Claire L. Chennault để khoe với nhiều người là “được Mỹ giúp,” tuy dẫn lời bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ cho bản Tuyên ngôn do mình soạn, lãnh tụ Hồ Chí Minh không phủ nhận sư kiện ông là một người Cộng sản. Trong những năm 1945, 1946, bên cạnh việc viết thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, ông cũng viết thư kêu gọi sự giúp đỡ của lãnh tụ Liên Xô Stalin, và cùng không được trả lời. Ngay từ những năm 1941, 1942, báo Việt Nam Độc Lập do Hồ Chí Minh chủ trương, đã đăng những bài ca tụng nước Nga như một thiên đường, và viết, “Chỉ khi nào nước Nga toàn thắng, thế giới mới được thấy những ngày vinh quang” (các trang 95-96). Cuối năm 1945, tuy tuyên bố “đảng Cộng sản tự ý giải tán” để che mắt dư luận, báo Sự Thật của “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác” do Trường Chinh điều hành, trong số ra ngày 5 tháng 12, 1945, vẫn xác quyết, “Con đường duy nhất có thể đưa nhân loại đến tự do, hòa bình, và hạnh phúc, là ‘thực hiện triệt để’ chủ nghĩa Mác” (các trang 104-105).
Mấy chục năm sau nhìn lại, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, cuộc “Cách mạng tháng Tám” của Mặt trận Việt Minh năm 1945, thực ra chỉ là một chuyện cướp chính quyền, và những người Cộng sản cũng dùng động từ “cướp.” Đáng buồn hơn, việc cướp ấy không cần thiết vì ở Việt Nam, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, ở Việt Nam có một khoảng trống quyền lực:
–Người Pháp: Đã bị người Nhật gạt ra bên lề sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, các nhân vật trọng yếu bị Nhật bắt giam.
–Người Nhật: Đã đầu hàng sau khi thua trận, nhất là sau khi nước Nhật bị hai quả bom nguyên tử. Họ đang chuẩn bị giao nộp võ khí để sẽ được đưa về nước.
–Chính phủ Trần Trọng Kim: Gồm một số nhà giáo, trí thức … không có tham vọng chính trị, được kêu gọi đứng ra quản trị đất nước sau khi chính quyền Pháp bị Nhật đánh đổ, chỉ quan tâm đến các vấn đề xã hội, cứu tế (đang có nạn đói trầm trọng), y tế, giáo dục …. Các vị sẵn sàng từ chức khi có người thay, và sau đó đã từ chức.
–Vua Bảo Đại: sẵn sàng thoái vị, tuyên bố “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”
Trong cuốn Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California: Truyền Thống Việt, 2017), nơi các trang 288-291, Gs. Phạm Cao Dương đưa ra nhiều tài liệu cho thấy trong phiên họp giữa Hoàng đế Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim ở Huế ngày 17 tháng 8 năm 1945, bên cạnh ý kiến giao hẳn quyền cho Việt Minh, có ý kiến của Luật sư Vũ Văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, là: Việt Nam cần có một chính phủ hợp pháp để bảo đảm được trật tự, và để khi Đồng Minh tới, có sẵn một chính phủ đúng danh nghĩa pháp lý, có tư thế và thẩm quyền đối thoại với họ, không để họ mượn cớ là Việt Nam đang hỗn loạn, vô chính phủ mà giúp thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Để đạt mục đích ấy, nên trao cho lực lượng Việt Minh quyền lập chính phủ, nhưng giữ lại thể chế quân chủ hiện có (đổi thành quân chủ lập hiến). Ý kiến ấy được các vị Bộ trưởng am hiểu về luật, các ông Trịnh Đình Thảo, Trần Văn Chương và Phan Anh tán thành. Một đạo Dụ được soạn thảo ngay sau đó: Dụ số 105 ngày 17 tháng 8 năm 1945. Vua Bảo Đại sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh là một tổ chức đấu tranh, và mời các lãnh tụ Việt Minh tới Huế để thành lập Nội các (trang 289).
Ngay từ đầu tháng 8 năm 1945, trong cương vị người cầm đầu Chính phủ, Thủ tướng Trần Trọng Kim cũng đã có ý định mời những người Việt Minh cộng tác. Nhân từ Huế ra Hà Nội, cụ nhờ Khâm sai Phan Kế Toại bắn tiếng mời Việt Minh cử đại diện đến nói chuyện. Tuy người tới gặp cụ còn rất trẻ, nhà giáo lão thành, tác giả Việt Nam Sử Lược đã nói như sau:
“Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau nhưng cũng một mục đích như nhau. Các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?” Trong những hàng phía sau, cụ Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đối thoại giữa cụ và người đại diện của Việt Minh:
Người ấy nói:
“Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.”
–“Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.”
–“Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.”
–“Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.”
–“Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia” (nhấn mạnh của người chép lại).
Rồi người ấy ngồi đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được. Tôi nói:
–“Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, sao các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?”
–“Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.”
–“Các ông có chắc là các nước Ðồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?”
–“Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”
–“Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.”
(Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi. Sàigòn: Vĩnh Sơn, 1969, trang 86-88).
Theo Gs. Phạm Cao Dương, người thay mặt Việt Minh đến gặp cụ Trần Trọng Kim hôm ấy là Lê Trọng Nghĩa. Các tài liệu về ông Nghĩa cho thấy ông sinh năm 1922 (năm 1945 mới 23 tuổi). Sau khi Việt Minh thành công ông được bầu vào Quốc Hội, rồi làm Cục trưởng cục Quân báo. Ông được thăng đến Đại tá Chánh Văn phòng, làm Trợ tá cho tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 1968 ông bị bắt vì bị coi là có liên quan đến nhóm “Xét lại chống Đảng,” bị giam và phải “lao động cải tạo” từ 1968 đến 1976. Ông bị khai trừ khỏi đảng Cộng sản , mất hết chức vụ và quyền lợi. Sau 47 năm giữ im lặng, trước khi qua đời năm 2015 ông để lại di chúc yêu cầu được minh oan. Theo một bạn thân của ông là Trần Đĩnh (Đèn Cù, Quyển 2, trang 535-549), ông Nghĩa rất đau lòng vì nỗi khổ của các con: trong lý lịch, họ bị coi là “con một người phản Đảng.” “Nghĩa sau đó vào Cầu Giấy kể lại với tôi. Rồi ngơ ngác, ‘Thế là mất hết à’?” (trang 547).
Lệ Trọng Nghĩa còn được mời tới gặp Khâm sai Phan Kế Toại sáng ngày 16 tháng 8 năm 1945. Lần này ông Toại chính thức mời Mặt trận Việt Minh cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, và “vui lòng chờ Mặt trận cử người tham gia chính phủ.” Người cùng đi với ông Nghĩa, ông Nguyễn Khang (Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội) dứt khoát trả lời, “Tốt nhất ông Toại nên từ chức, trao chính quyền lại cho Việt Minh.” (Phạm Cao Dương, Sách đã dẫn, trang 307-309).
Theo nhà biên khảo David G. Marr trong cuốn Vietnam 1945 (Berkeley, CA: University of California Press, 1995), dựa theo các tài liệu từ phía Hà Nội, thì trước khi gặp ông Lê Trọng Nghĩa ngày 16 tháng 8, Khâm sai Phan Kế Toại đã tiếp một phái đoàn của Việt Minh do ông Nguyễn Khang cầm đầu ngày 13 tháng 8. Qua ông Khang, Khâm sai Toại mời Việt Minh giữ một số chức vụ trong chính quyền, nhưng ông Khang nhất quyết từ chối (trang 374).
Trong lần tiếp xúc sau, xảy ra lúc 8 giờ sáng ngày 18 tháng 8 năm 1945, tại một biệt thự ở số 101 đường Gambetta, nay là đường Trần Hưng Đạo, đại diện chính phủ Trần Trọng Kim là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật, một học giả lỗi lạc và uy tín đương thời. Giáo sư Hãn tự giới thiệu là “người đại diện cao cấp nhất của Thủ tướng Chính phủ tại Hà Nội,” và tới để báo tin, “Chúng tôi biết chắc chắn có tin quân đội Đồng Minh đã bắt đầu lên đường, chia nhau vào chiếm Nam Bắc vĩ tuyến 16 nước ta rồi. Đất nước đang có nguy cơ đe dọa lại bị xâm chiếm và chia cắt một lần nữa.” Giáo sư Hãn gợi ý, “Chúng ta hãy tiếp tục thương thảo, nói chuyện với nhau. Việt Minh các ông cứ nắm tất cả các vùng nông thôn, nhưng để cho chính phủ quản lý một số thành phố lớn, cốt để có danh nghĩa mà nói chuyện với Đồng Minh trong lúc này, không thì nguy cả” (Phạm Cao Dương, Sách đã dẫn, trang 309-311).
Các học giả Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn không phải là những người có tham vọng chính trị. Khi đề nghị Việt Minh duy trì thể chế quân chủ nhưng được quyền lâp chính phủ điều hành việc nước, cũng như khi đề nghị Việt Minh để lại cho chính phủ đương thời một số thành phố lớn để có tư thế đối thoại với các lực lượng Đồng Minh sắp đến Việt Nam, các ông chỉ nghĩ đến quyền lợi của quốc gia. Hành động “cướp chính quyển” của Việt Minh đã khiến chính phủ lâm thời do họ lập ra năm 1945 không được nhìn nhận là một chính phủ có căn bản pháp lý. Giữa tháng 9 năm 1945, khi tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, đối mặt với những cuộc biểu tình hỗn loạn và tranh chấp bạo động đưa tới đổ máu diễn ra quanh Sài gòn nhưng không tìm được người đại điện hợp pháp của Việt Nam để đối thoại, ông ta đã có những hành động thuận lợi cho người Pháp.
Theo Gs. Phạm Cao Dương, Lê Trọng Nghĩa còn đến dinh Khâm sai một lần nữa vào chiều ngày 18 tháng 8 để gặp bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, người đại diện chính phủ thay Khâm sai Phan Kế Toại đã từ chức, nhưng không phải để thảo luận mà chỉ cốt thăm dò tình hình.
Trong các lần tiếp xúc, trừ lần cuối cùng, các cụ Trần Trọng Kim, Phan Kế Toại và Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đều chân thành mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để “cùng lo cho quyền lợi đất nước” nhưng tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh, với nòng cốt là đảng Cộng sản, đã chủ trương “cướp chính quyển” để một mình lãnh đạo đất nước hầu thực hiện một cuộc cách mạng theo đường lối riêng, bất chấp những tai hại và nguy hiểm có thể xảy tới cho dân tộc, đúng như lời tuyên bố của Lê Trọng Nghĩa, “Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.” Đó cũng là lý do trong những năm 1945, 1946, trước và sau khi giành được chính quyền, Việt Minh đã tìm cách tiêu diệt toàn bộ các nhà trí thức có uy tín và những người hoạt động chính trị không phải là Cộng sản. Chúng ta có thể kể Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, Ls. Dương Văn Giáo, bs. Hồ Vĩnh Ký và vợ là bs. Nguyễn Ngọc Sương, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Nhượng Tống… Các lãnh tụ tôn giáo có ảnh hưởng như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa Hảo cũng bị sát hại.
Ngày 17 tháng 8-1945 ở Hà Nội, lúc 3 giờ chiều, nhân một cuộc biểu tình của Tổng hội Công chức trước Nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ sau khi Nhật đầu hàng, cán bộ Việt Minh tới cướp máy vi âm, hô “Hoan hô Việt Minh” và trương cờ đỏ sao vàng. Nhà biên chép lịch sử Đoàn Thêm cho biết như sau, “Rồi đoàn biểu tình được lệnh chuyển bước, tuần hành qua nhiều đường lớn… Tới ngã sáu Cửa Nam, vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công chức, vừa chạy vừa phất lá cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác giơ một vật ít thấy ở thời đó là khẩu súng lục, bắn vài phát như để thị uy: “Anh em hãy cùng tôi hô ‘Mặt trận Giải phóng muôn năm’.” Vài công chức, có lẽ hoảng sợ quá, đành “Muôn năm” theo một cách gượng gạo và máy móc.” (Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên: Ký sự. Sài gòn: Nam Chi Tùng Thư, trang 47-48).
Ngày 19 tháng 8, từ sáng sớm, Việt Minh tổ chức biểu tình tuần hành từ trước Nhà hát lớn để đi “cướp chính quyền.” Theo hồi ký của nhà biên khảo Hoàng Tường trong Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA: Văn Khoa, 1987), “Lúc mới xuất phát chỉ độ 500 người, nhưng sau đó cứ mỗi khu phố đi qua lại có dân chúng hiếu kỳ đi theo, nên đoàn biểu tình trở nên đông đảo, ước độ 2000 người, đa số là thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi. Dẫn đầu là một lá cờ lớn (nền đỏ sao vàng), rồi đến biểu ngữ lớn nhỏ… Hai bên đoàn người biểu tình diễn hành còn có một đám người cỡi xe đạp cắm cờ trên ghi đông, vừa đạp vừa hô, “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” (trang 68). Bác sĩ Nguyễn Tường Bách kể lại, “Có người cầm cờ đỏ, nhỏ, bằng giấy, có người hô khẩu hiệu, “Ủng hộ độc lập, Đả đảo thực dân Pháp.” Thỉnh thoảng có vài người đi kèm, họ chia nhau rẽ vào các nhà bên đường xua người ra phố tham dự biểu tình. Vì vậy người xuống đường càng ngày càng đông, nam nữ già trẻ đều có; vì nếu không hồ hởi để đi biểu tình, cũng khó mà từ chối không dự vào một hoạt động để ủng hộ độc lập.” (Nguyễn Tường Bách. Việt Nam Một Thế Kỷ Qua: Hồi Ký, Cuốn I. Westminster, CA: Thạch Ngữ, 1968, trang 1969).
Nhà biên khảo Hoàng Tường viết tiếp, “Đầu tiên đoàn biểu tình dừng lại trước phủ Khâm sai. Trong khi tiếng hô “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” vang dậy thì một bọn chừng hơn 10 người tách khỏi đoàn biểu tình tiến vào trong dinh, trước bộ mặt ngơ ngác của một anh Bảo an binh đứng gác. Đi đầu là hai người tay cầm lăm lăm khẩu súng sáu, và hai người khác khiêng một lá cờ đại, nền đỏ sao vàng. Thế rồi chỉ một lát sau, lá cờ được kéo lên trước cửa dinh, ngạo nghễ tung bay trước gió. Anh Bảo an binh gác ngoài cửa cũng được thay thế luôn: một người trong đám biểu tình tách ra, nhận lấy cây súng trường anh Bảo an binh trao cho, và đứng gác trước dinh.” Khâm sai Phan Kế Toại có cảm tình với Việt Minh, nhất là sau khi Phan Kế An, con trai ông, gia nhập và hoạt động cho họ. Tối 17 tháng 8, sau khi biết việc xin từ chức đã được chấp thuận, ông rời dinh Khâm sai về nhà riêng. Trước khi đi, ông dặn viên Chánh quản và một Bảo an binh có nhiệm vụ canh giữ dinh, “Không nổ súng” để tránh đổ máu một cách vô ích.
Sau đó, đoàn biểu tình lần lượt diễn hành đến tòa Thị chính, nhà máy đèn, nhà bưu điện, rồi đến các ty sở khác, đài phát thanh. Cuối cùng họ kéo đến trại Bảo an binh … Cuộc đoạt chính quyền diễn ra êm ru. Đảng viên Cộng sản xuất hiện rất đông đảo, khoa tay múa chân, miệng hô: “Cách mạng thành công! Cách mạng thành công!” (trang 69).
Thật ra, nếu đáp ứng lời mời của vua Bảo Đại, vào Huế lập chính phủ trong tinh thần đạo Dụ số 105 ngày 17-8-1945 như đã nói trên, những người Cộng sản cũng sẽ làm chủ tất cả những dinh thự ấy cũng như các dinh thự khác trên toàn quốc, vì trong thể chế quân chủ lập hiến, ngôi vua chỉ mang tính cách biểu tượng quốc gia. Nhưng điều họ muốn là có thanh thế thật mạnh (cướp được chính quyền) để sau đó còn thực hiện thêm nhiều chuyện “ngày long trời, đêm lở đất” khác.
Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, học giả Trần Trọng Kim cho biết, “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Sách đã dẫn, trang 93).
Gần 70 năm sau, Trần Đĩnh, một nhà văn và biên khảo trưởng thành trong chế độ Hà Nội, cũng viết: “Tổng tư lệnh Nhật vào Huế, gặp Bảo Đại và Trần Trọng Kim, nói, ‘Nếu các vị yêu cầu, Nhật với 50,000 quân tinh nhuệ, có thể dẹp Việt Minh trong một đêm. Việt Minh có quá lắm là 5000 người, còn súng ống lại càng quá ít.’ Nhưng hai ông này từ chối.” (Trần Đĩnh, Đèn Cù, Quyển 2, trang 478).
Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, trao kiếm và ấn tượng trưng vương quyền cho đại diện của họ (Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận) ngày 25 tháng 8-1945. Một tuần sau, ngày 2 tháng 9-1945, ông Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn độc lâp.
Nhưng niềm vui không được lâu. Hơn 10 hôm sau, ngày 13 tháng 9-1945, theo tinh thần Thỏa ước Potsdam, Thiếu tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16. Hoàn cảnh chính trị ở miền nam Việt Nam những năm 1945-1946 không ổn định. Nhiều nhân sĩ trí thức ái quốc, nhiều tổ chức tôn giáo không chấp nhận sự thao túng và những biện pháp khống chế của các nhân vật Cộng sản. Phía Cộng sản khủng bố, hạ sát nhiều nhân vật ưu tú của miền Nam, đưa tới việc nhiều tổ chức tôn giáo và nhân sĩ (như nhà giáo Trần Văn Hương) vừa lo sợ vừa bất mãn, tách khỏi phong trào kháng chiến do Cộng sản chỉ huy. Tình trạng mất an ninh quanh khu vực Sài gòn – Chợ Lớn khiến tướng Gracey ban lệnh thiết quân luật và cho võ trang một số thường dân Pháp, giúp Pháp có lợi thế. Sau khi tướng Leclerc của Pháp đem quân tới vào tháng 10-1945, ông mở rộng phạm vi kiểm soát của Pháp đến hầu hết các thị trấn và tỉnh lỵ miền Nam, dồn lực lượng Việt Minh vào thế co cụm, lẩn tránh vào các vùng hẻo lánh, bưng biền. Một trong những tài liệu đáng tin cậy, giúp chúng ta biết một cách khái quát vể tình trạng miền Nam những năm ấy là cuốn Gió Mùa Đông Bắc của bác sĩ Trần Nguơn Phiêu (Amarillo, TX: Hải Mã, 2008). Sinh năm 1927, ở đúng tuổi 18 năm 1945, ông đã tích cực dấn thân vào phong trào tranh đấu cho độc lập trong mấy năm đầu.
Sau khi tạm ổn định trong Nam, tướng Leclerc đem quân ra Bắc, chuẩn bị đổ bộ ở Hải Phòng. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, đại diện của Pháp là Jean Sainteny ký với ông Hồ Chí Minh một Hiệp ước sơ bộ, trong đó Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do trong khối Liên hiệp Pháp và trong Liên bang Đông Dương. Để đổi lại, chính phủ Hồ Chí Minh đồng ý cho Pháp đưa 15,000 quân vào miền Bắc trong vòng 5 năm. Mâu thuẫn Việt-Pháp sau đó gia tăng. Đêm 19 tháng 12-1946, Việt Minh tấn công quân đội Pháp ở Hà Nội, mở màn cho cuộc chiến tranh Việt Minh – Pháp kéo dài tới Hiệp định Geneva tháng 7 năm 1954.
Khi Việt Minh khởi sự giao tranh với Pháp cuối năm 1946 rồi bỏ Hà Nội và các đô thị chạy lên chiến khu, chỉ một tỷ lệ nhỏ dân chúng có phương tiện chạy theo hay tản cư tới những vùng tương đối an ninh gần quanh. Cư dân còn ở lại các thành phố vẫn cần được bảo vệ, trong đó có những trí thức và thành phần tư sản sẽ bị sát hại hoặc đàn áp nếu tới sống ở vùng do Việt Minh kiểm soát. Việc nhiều nước Á Châu được trả lại độc lập đã khiến một số không nhỏ người Việt nhận thấy nếu tập hợp quanh một nhân vật có uy tín, đủ tư thế đại diện, có thể tiến tới việc điều đình với người Pháp để thu hồi độc lập dần dần. Tháng 5 năm 1947, Cao ủy Pháp tại Đông Dương là Émile Bollaert đọc một bài diễn văn quan trọng ở Hà Đông, đưa ra quan niệm “độc lập trong sự liên lập,” và tuyên bố “sẵn sàng tham khảo tất cả các phe phái chính trị ở Việt Nam.” Đó là lý do khiến cựu hoàng Bảo Đại, người đã tự nguyện thoái vị năm 1945 với câu nói “Không muốn làm vua một nước nô lệ” được nhiều khuynh hướng chính trị người Việt tìm tới yết kiến, thỉnh cầu đứng ra làm đại diện. Cuộc chiến tranh cũng bị dư luận Pháp lên án. Vì thế Pháp và Việt Nam dần dần tiến tới Thỏa ước Hạ Long năm 1948, rồi Hiệp định Élysée năm 1949, trong đó Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam. Năm 1949 cũng là năm Cộng sản toàn thắng trên lục địa Trung Hoa. Hai khuynh hướng chính trị thành hình ở Việt Nam. Một bên là đoàn kết quanh một nhân vật có uy tín để điều đình với Pháp hầu thu hồi độc lập qua từng giai đoạn (phe Quốc gia), một bên là dựa vào sự giúp đỡ của Trung Cộng để đánh Pháp (phe Cộng sản).
Hiệp định Elysée chưa phải một hiệp định toàn hảo. Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp,” và xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam, nhưng về ngoại giao Việt Nam chưa hoàn toàn tự do. Việt Nam còn phải “phối hợp hoạt động với đướng lối chung của Liên hiệp Pháp,” “các quốc gia được Việt Nam cử phái đoàn ngoại giao phải có sự tương đồng của chính phủ Cộng hòa Pháp.” Nói cách khác, năm 1949 khi ký Hiệp định Elysée, chính thể Quốc gia Việt Nam chưa được độc lập về phương diện đối ngoại.
Được tin Pháp ký Hiệp định Elysée với cựu hoàng Bảo Đại, ông Hồ Chí Minh phẫn nộ, tuyên bố “đó chỉ là một tờ giấy lộn.” Nhưng so với bản Hiệp định do chính ông ký với Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, thì Hiệp định Elysée là một bước tiến xa và ở một cấp cao hơn.
–Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do “trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp.” Trong Hiệp định Elysée, Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp.” Liên hiệp Pháp là một hình thức kết hợp giữa một số quốc gia từng là thuộc địa của Pháp, cũng tương tự khối Liên hiệp Anh (British Commonwealth), gồm một số quốc gia từng có những gắn bó với Anh (như Úc, Tân Tây Lan [New Zealand], Canada, South Africa, và một số quốc gia nhỏ).
– Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp không cam kết sẽ trả Nam Kỳ cho Việt Nam, chỉ nói rằng “chính phủ Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của dân chúng qua cuộc trưng cầu dân ý.” Trong Hiệp định Elysée, Pháp xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam.
–Người ký Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946 với Hồ Chí Minh là Jean Sainteny, trong tư cách “phái viên của phủ Cao ủy Pháp, được sự ủy quyền của Đô đốc d’Argenlieu, đặc sứ toàn quyền của Cộng hòa Pháp.” Người ký Hiệp định Elysée với Cựu hoàng Bảo Đại là Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc Vincent Auriol.
–Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, ông Hồ Chí Minh nhận đón 15,000 quân Pháp vào đóng ở miền Bắc Việt Nam. Nói cách khác, ông không chống lại mà hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp trong lãnh thổ Việt Nam.
Từ đó trên đất nước Việt Nam hiện diện hai chính phủ song hành là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Chính thể Quốc gia là một lối thoát cho nhiều nhà hoạt động chính trị với tinh thần dân tộc và cho những người dân không thể sống dưới chế độ Cộng sản. Những năm sau đó, dân chúng bỏ vùng Việt Minh, hồi cư về các thành phố để sống dưới chính thể Quốc gia càng ngày càng đông.
Nhờ sự tận lực giúp đỡ của Trung Cộng, phe Cộng sản thắng Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và đất nước Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản. Những người tự thấy không thể sống với Cộng sản ở miền Bắc phải lánh vào miền Nam.
Trong cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp từ 1946 đến 1954, theo tài liệu của Việt Minh, số quân nhân tử trận và mất tích là 191,605 người. Theo các sử gia Tây phương, con số ấy từ 175,000 tới 300,000 người. Số thường dân Việt Nam bị chết được ước lượng từ 125,000 tới 400,000. Việt Minh theo chính sách tiêu thổ kháng chiến, nên tất cả các đô thị bị đập phá tan hoang.
II. “Đánh Mỹ để thống nhất đất nước”
Những hàng phía trên đã cho ta thấy khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt năm 1945, nếu ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản không khăng khăng đưa đất nước vào con đường Cộng sản, Việt Nam có thể đã độc lập, nếu không sớm như Philippines và Ấn Độ (từ 1945 đến 1947), thì cũng tương tự Nam Dương (năm 1949), hay trễ lắm như Mã Lai (năm 1957). Đâu cần phải xin Trung Cộng giúp đỡ để đánh Pháp rồi sau đó bị họ khống chế? Nếu các nhà lãnh đạo miền Bắc không khăng khăng áp dụng chủ thuyết Cộng sản, đất nước đâu đến nỗi phân đôi? Đâu cần một cuộc chiến tranh thảm khốc để thống nhất đất nước?
Mặt khác, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh (the Cold War) giữa hai đại cường quốc Nga – Mỹ (1947-1991), Việt Nam không phải quốc gia duy nhất bị chia đôi. Chúng ta cũng thấy có Đông – Tây Đức và Nam – Bắc Hàn. Đông – Tây Đức giữ tình trạng chia cắt cho đến khi thống nhất trong hòa bình năm 1990. Bắc Hàn chủ động tấn công năm 1950, gây nên cuộc chiến tranh Cao Ly (the Korean War) trong những năm 1950-53, nhưng sau tháng 7-1953 cũng chấp nhận chia cắt ở vĩ tuyến 38, giới hạn cuộc tranh chấp ở mức độ “chiến tranh miệng.” Việt Nam là quốc gia duy nhất trải qua một cuộc chiến thảm khốc với:
–Ở miền Bắc:
-Trên 849,000 quân nhân tử trận
-Trên 600,000 quân nhân bị thương
-Trên 232,000 quân nhân mất tích
-Số thường dân ở vùng do Cộng sản kiểm soát bị chết vì chiến tranh: từ 30 ngàn tới 182 ngàn.
–Ở miền Nam:
-313,000 quân nhân tử trận
-1,170,000 quân nhân bị thương
-Từ 195 đến 430 ngàn thường dân bị chết oan.
Đúng là “nhất tướng công thành, vạn cốt khô”. Dân trong nước đã đưa ra lời nhận xét, “Con đường Bác đi là con đường bi đát.”
Đầu thập niên 1980, khi tướng Võ Nguyên Giáp bị đổi sang phụ trách “Ủy ban Sinh đẻ có kế hoạch,” trông coi việc hạn chế sinh đẻ và ngừa thai, người dân miền Bắc cũng đưa ra cặp câu đối:
Tướng Võ không còn Nguyên Giáp nữa,
Bác Hồ cũng chẳng Chí Minh đâu!
Đất nước hiện đã thống nhất nhưng lòng người vẫn chưa thổng nhất. Việt Nam bị tàn phá, trở nên lạc hậu, thua kém xa các lân bang. Trong khoảng đầu thập niên 1960, mức sống ở Hàn Quốc, Thái Lan, Mã Lai … thấp hơn ở Nam Việt Nam. Hiện nay họ tiến hơn rất xa. Có phải đó là “sự nghiệp vĩ đại” để các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam muốn dân Việt phải “nhớ ơn?”
Để ép dân miền Bắc hi sinh, những người Cộng sản dùng tinh thần dân tộc và chính sách lừa dối. Họ xuyên tạc là dân miền Nam bị “đế quốc Mỹ và tay sai” thống trị, áp bức, vô cùng cực khổ, không có gì để ăn, nên thanh niên thiếu nữ miền Bắc cần hi sinh vào để “cứu” bà con ruột thịt miền Nam, như tinh thần câu thơ của Bùi Minh Quốc:
Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Dầu xa xôi gấp mấy cũng lên đường
Bùi Minh Quốc đã cùng vợ, nhà văn Dương Thị Xuân Quý, vào chiến trường miền Nam, gửi người con duy nhất của hai người là Bùi Dương Hương Ly nhờ bà ngoại nuôi hộ. Nhà văn Xuân Quý hi sinh ở miền Nam khi mới 28 tuổi, và khi con của hai người mới được 2 tuổi.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, theo chân đoàn quân chiến thắng vào tiếp thu Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết,” vì nhận ra rằng, “Cái mô hình xã hội của miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và chúng tôi, người trong đội ngũ chiến thắng, thì thực ra đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ.” “Điều đó khiến tôi hết sức cay đắng. Cả thế hệ của chúng tôi đã bị lừa…”. Theo bà, “Dân Việt Nam đã bị đẩy vào một cuộc chiến vô nghĩa.” Phía sau là đường dẫn đưa một số lời phát biểu đặc sắc của bà:
Đứng về phương diện kinh tế, mặc dầu trong hoàn cảnh chiến tranh, mức sống tại miền Nam vẫn cao hơn tại miền Bắc nhiều. Ca sĩ Ái Vân kể lại ngày đầu tiên bà từ Hà Nội đến thăm gia đình người chị ruột của thân phụ ở Sài gòn:
“Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Chị Nga, … là con dâu trưởng của cô Cả, hỏi, “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?” Tôi trịnh trọng vừa mở bọc vừa nói, “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần.”
Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả, chị Nga cười đến nỗi suýt té từ trên ghế xuống sàn. Chị nói, “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em.” Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà. Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác, cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có trong bất kỳ nhà nào ở miền Bắc tại thời điểm đấy…”
(Ái Vân. Để Gió Cuốn Đi: Tự truyện, Sài gòn: NXB Hội Nhà Văn, 2016. Trang 156-157).
Không riêng gì mức sống vật chất, nếp sống về tinh thần ở miền Nam năm 1975 cũng cao hơn ở miền Bắc. Ca sĩ Ái Vân cho biết tiếp:
“Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam “bị Mỹ Ngụy kìm kẹp,” khổ lắm, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi nilon đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc.”
(Để Gió Cuốn Đi: Tự truyện. Trang 156).
Phía sau là những hàng tự thuật và nhận xét của một chuyên viên kỹ thuật miền Bắc được cử vào để “tiếp thu” miền Nam, Trương Minh:
“Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hòa. Có quá nhiều nhà máy tại đây. Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này, và tuy không ai nói với ai, đều trầm trồ trước công nghiệp miền Nam.
“… Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh, lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.
“… Sài Gòn, hay nói rộng ra cả miền Nam, không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo đài Hà Nội mô tả… Đây là mô hình của một xã hội văn minh, và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội XHCN tại miền Bắc. Tiếc thay! Một xã hội như thế lại vừa bị cướp mất đi.”
(Trương Minh, “Chuyện kể của một người chiến thắng khi vào Nam,” trong Nguyễn Tường Tâm, Cuộc Chiến Việt Nam 50 Ngày Cuối Cùng. San Jose, CA: NT Tâm, 2025, Trang 509-512).
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn, “Không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn. Không chỉ đường xá tốt mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc. Trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật tốt. Giữa người với người có quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn.”
(“Cú sốc giáo dục khi vào Nam tiếp quản,” in lại trong Nguyễn Tường Tâm, Cuộc Chiến Việt Nam 50 Ngày Cuối Cùng. Sách đã dẫn, Trang 518).
Trong bài “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” đăng trong tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 7-8 (114-115) năm 2014, theo chuyên đề “Giáo dục miền Nam Việt Nam 1954-1975,” ông nhận xét thêm: “Trong khi khác biệt với giáo dục miền Nam, thì giáo dục miền Bắc cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được giáo dục miền Nam đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.” Phía sau là đường dẫn đưa tới trang blog đăng những bài suy tư của ông:
Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc
Xã hội miền Nam năm 1975 chưa phải là một xã hội toàn hảo. Nền dân chủ miền Nam đang xây dựng năm 1975 chưa phải là một nền dân chủ kiện toàn. Nhưng theo nhận xét của một nhà văn (Dương Thu Hương), một nghệ sĩ (Ái Vân), một chuyên viên kỹ thuật (Trương Minh), một nhà nghiên cứu văn hóa (Vương Trí Nhàn) cùng tới từ miền Bắc, xã hội ấy không cần các lãnh tụ Cộng sản Hà Nội xua quân vượt Trường Sơn để “giải phóng.” Hơn hai triệu người Việt đã bị hi sinh trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn thảm khốc và vô nghĩa. Như vậy ngày 19 tháng 8 năm 1945, ngày Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội, trong khi vua Bảo Đại và các cụ Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn … nhiều lần mời cộng tác, có đáng được coi là một ngày để dân Việt “hân hoan kỷ niệm” hay không?
(GS Trần Huy Bích biên soạn)
Cuộc chiến cháp là chống Pháp giành độc lập là của toàn dân tộc Việt Nam, trong đó có xương máu và sự hy sinh của các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo; Đảng Dại Việt do Trương Tử Anh lãnh đạo, Duy Dân Đảng do Lý Đông A lãnh đạo và nhiều tổ chức quốc gia khác. Nhưng người Cộng sản đã tung ra các đợt thanh toán và thủ tiêu những người quốc gia để cướp công kháng chiến của toàn dân.
Nhà văn Nam Dao hiện sống ở Canada đã bỏ ra nhiều thời gian để tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân và đã nhìn thấy thực chất Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng Chín 1945 của Hồ Chí Minh là món tả pín lù, câu đầu lấy trong bản tuyên ngôn Mỹ, vài câu sau thì là tuyên ngôn nhân quyền của Cách Mạng Pháp, rồi ba chữ Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc biểu trưng cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì lại từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên bên Tầu.
Cho nên, chúng ta cần tập trung vào hậu quả của Cách Mạng Tháng Tám:
1/ Việt Minh nắm chính quyền, lòi đuôi là Cộng sản, nhấn chìm cả miền Bắc vào một xã hội trại lính.
2/ Cộng sản với cuộc Cải Cách Ruộng Đất đã giết hại hàng trăm ngàn người (con số của Đặng Phong, trong cuốn “Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” cho biết khoảng 178 ngàn người bị giết. Đặng Phong là cán bộ đảng và cuốn sách này do nhà xuất bản Sự Thật in và phát hành. Con số thật chắc chắn cao hơn. Ngoài ra nên đọc cuốn Gia Đình của Phan Thúy Hà; cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh)
3/ Cộng sản nhận chìm xuống bùn đen những trí thức, văn nghệ sĩ trong Nhân Văn Giai Phẩm như Trần Dần, Phùng Quán, Văn Cao, Phùng Cung, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường và nhiều người khác.
4/ Cộng sản đàn áp thẳng tay những đảng viên dính vào vụ mà Cộng sản quy chụp là “Xét Lại Chống Đảng”
Bối cảnh:
Vào tháng 9 năm 1953, Khrushchyov được bầu làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản. Ttheo chính sách này, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản. Đường lối của Khrushchyov bị Trung Quốc, dưới thời Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”
Tại Việt Nam, đảng viên cộng sản phân hóa thành hai nhóm, một nhóm chấp nhận chính sách xét lại của Khrushchev (chủ trương tạm thời sống hòa bình với Hoa Kỳ), không phát động chiến tranh vũ trang giải phóng miền Nam. Họ hi vọng có thể thống nhất hòa bình như Hiệp định Genève quy định; nhóm kia do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cầm đầu muốn xua quân đánh miền Nam.
Những người bị bắt trong vụ án gọi là xét lại chống đảng gồm có nhiều đảng viên Cộng sản lão thành, tướng lĩnh, nhà nghiên cứu và nhà báo.
5. Cộng sản tung ra nghị quyết 9 quyết tâm đánh chiếm miền Nam gây ra những hậu quả:
-Tết Mậu Thân, nhiều ngàn đồng bào vô tội bị tàn sát, nhất là là tại Huế.
-Trận 1972, Đại Lộ Kinh Hoàng đẫm máu và nước mắt của quân dân miền Trung.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, hạ nhục bên thua cuộc, bắt giam, hành hạ hàng trăm ngàn quân dân cán chính miền Nam, đánh tư sản nhằm cướp hết tài sản của người dân (như lời Võ Văn Kiệt: đấu tranh là để cướp lấy lợi quyền vào tay chúng ta), đẩy nhiều trăm ngàn người vào thế phải buộc lòng bỏ nước ra đi.
50 năm sau ngày 30 tháng Tư, đất nước có phần khởi sắc về kinh tế nhưng lợi quyền hết như nằm trong tay các quan chức chế độ. Dân bị cướp đất, trí thức văn nghệ sĩ vẫn bị đàn áp.
Tác giả Anh Thư Đỗ viết trên Facebook của cô bài viết tựa đề CHÚNG TÔI ĐANG GỌI CÁC EM VỀ như sau:
Nhận được bản tin từ trang VTMP có tựa đề: “Picnic “Mừng” Cách Mạng tháng 8 ngay Thủ Đô Tị Nạn của tổ chức VietRise” viết: “Ngày 16 tháng 8, VietRise đã tổ chức một buổi picnic mùa hè nói về Cách Mạng Tháng 8 (CMT8), và Hồ Chí Minh (HCM) với “thành tích” mang lại chủ quyền dân tộc cho Việt Nam và đã “thành công” ra sao.”
Đọc xong bản tin, tôi không tức giận.
Tôi đau lòng.
Tôi thấy lòng mình chùng xuống, như thể một vết thương chưa lành trong ký ức của cộng đồng vừa bị khơi lại – không phải bởi kẻ thù, mà bởi chính những người trẻ mà tôi từng đặt nhiều hy vọng.
Tôi đã theo dõi các hoạt động của VietRise trong nhiều năm qua. Tôi từng xúc động khi thấy các em đứng lên bảo vệ người lao động bị bóc lột, lên tiếng cho người nhập cư, hỗ trợ người vô gia cư, và đặc biệt là nỗ lực giúp đỡ những người yếu thế trong cộng đồng – bất kể màu da, tôn giáo hay hoàn cảnh.
Tôi không nghi ngờ lòng nhân hậu và sự lý tưởng của các em. Trái lại, tôi từng tự hào khi thấy thế hệ trẻ gốc Việt có thể dấn thân vào đời sống xã hội Mỹ một cách mạnh mẽ, có lý tưởng và biết đấu tranh cho công lý.
Chính vì vậy, tôi mới thất vọng đến tận cùng khi thấy các em – với trái tim rộng mở như thế – lại vinh danh một giai đoạn lịch sử đen tối, gắn liền với máu và nước mắt của chính những người Việt tị nạn đã tạo dựng nên cộng đồng nơi các em đang sống.
Các em biết chăng: Cách mạng tháng Tám là một khúc quanh nghiệt ngã của lịch sử Việt Nam.
Có thể các em được nghe rằng “Cách mạng tháng Tám” là sự kiện dẫn đến độc lập dân tộc. Nhưng có lẽ các em chưa biết – hoặc chưa nghe – về cái giá mà dân tộc Việt Nam đã phải trả sau ngày đó.
Cách mạng tháng Tám, trong cái nhìn của Đảng Cộng sản, là ngày mà Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945.
Nhưng trong cái nhìn của lịch sử chân thực – và của hàng triệu người Việt lưu vong – đó là ngày khởi đầu cho một chuỗi dài bi kịch dân tộc: đàn áp trí thức, cải cách ruộng đất đẫm máu, thiết lập chế độ độc tài toàn trị, chiến tranh triền miên, và cuối cùng là cảnh hàng triệu người Việt Nam phải bỏ nước ra đi, chết chìm ngoài biển, chết đói trong rừng, hoặc sống đời lưu vong không lối về.
Tháng 8 năm 1945, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim đang nắm quyền, cố gắng tái thiết quốc gia sau thuộc địa. Nhưng trong lúc đất nước chưa ổn định, lực lượng Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã dùng vũ lực và tuyên truyền cướp chính quyền, giành lấy vị trí lãnh đạo mà không qua bất kỳ cuộc bầu cử dân chủ nào.
Từ đó, lịch sử rẽ sang một con đường đầy máu và nước mắt.
Cải cách ruộng đất, đấu tố hàng trăm ngàn người vô tội.
Đàn áp trí thức, đàn áp tôn giáo, đốt sách, bức hại văn hóa.
Chia cắt đất nước, phát động chiến tranh suốt hàng chục năm.
Và cuối cùng, đưa đất nước vào một chế độ độc đảng toàn trị, nơi người dân không có quyền bầu lãnh đạo, không được tự do ngôn luận, và vẫn còn tù nhân lương tâm cho đến tận ngày hôm nay.
Hàng triệu người – trong đó có cha mẹ, ông bà các em – đã bỏ nước ra đi, vượt biển, chết đói, chết khát, chết vì cướp biển… để thoát khỏi cái chế độ được khai sinh từ chính sự kiện mà các em đang “mừng”, đang “tự hào”.
Hồ Chí Minh không phải là biểu tượng của giải phóng trong trái tim cộng đồng này. Ông ta là biểu tượng của một cuộc cách mạng sai đường, của cái giá khủng khiếp mà dân tộc này đã phải trả để rồi chỉ đổi lấy sự cai trị độc tài và mất mát nhân phẩm.
Tôi không viết những dòng này để kết tội. Tôi chỉ muốn các em hiểu: lòng tốt cần đi cùng hiểu biết. Lý tưởng phải dựa trên sự thật.
Vinh danh Hồ Chí Minh hay Cách mạng tháng Tám không phải là “một cách tiếp cận lịch sử đa chiều” – đó là một sự xúc phạm đau đớn đối với cộng đồng tị nạn chính trị, và là một cái tát vào ký ức chưa lành của hàng triệu người.
Tôi mong các em dừng lại một chút, học lại lịch sử, lắng nghe nhiều phía, và hiểu vì sao cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn treo Lá Cờ Vàng, vẫn tưởng niệm Tháng Tư Đen, vẫn day dứt khi nghe tên Hồ Chí Minh.
Sự tthật không chỉ nằm trong sách giáo khoa, nó nằm trong những vết thương của người còn sống.
Các em có thể sinh ra ở đây, lớn lên trong tự do, được học trong môi trường dân chủ – nhưng sự tự do ấy không tự nhiên mà có. Nó đến từ chính những người đã từng phải chịu đựng cái ngày mà các em vừa tổ chức picnic vinh danh ăn mừng. Nó đến từ nỗi đau của những người cha, người mẹ, ông bà từng ngồi thuyền vượt biển với xác trẻ con trên tay. Nó đến từ nước mắt của những người từng bị tịch thu nhà cửa, bị gọi là “ngụy”, bị đánh đập vì dám nghĩ khác chế độ.
Tôi không phán xét lòng yêu nước của các em…
Tôi chỉ xin các em một điều: đừng vội vàng tô hồng lịch sử khi máu vẫn còn chưa khô trong ký ức của bao người. Các em có thể không biết, nhưng các em hoàn toàn có khả năng tìm hiểu. Hãy hỏi cha mẹ mình. Hãy tìm đọc những trang lịch sử bị ém nhẹm. Hãy lắng nghe lời kể từ những người đã sống sót.
Tôi tin các em có trái tim…
Nhưng trái tim chỉ đẹp khi nó biết rung động với nỗi đau người khác. Và lòng yêu nước chỉ đúng khi nó đặt trên sự thật – không phải trên sự tuyên truyền cũ kỹ mà cộng đồng này đã quá hiểu rõ.
Nếu các em thực sự yêu cộng đồng người Việt, yêu công lý và nhân quyền như khẩu hiệu của VietRise, thì xin đừng đứng về phía những người từng chà đạp lên nó. Xin đừng tổ chức ngày “mừng” trên nỗi tang tóc chưa được gột rửa.
Biết – rồi hãy làm. Hiểu – rồi hãy vinh danh.
Tôi vẫn tin, các em biết lắng nghe.
Vì vậy, tôi không viết bài này với tâm thế giận dữ.
Tôi viết như một người đi trước, với một nỗi lo: rằng thế hệ sau – dù thông minh, nhân ái – sẽ bị dẫn sai đường nếu không được nhắc nhở kịp thời.
Các em có trái tim. Nhưng hãy để lý trí và sự thật dẫn lối. Các em có hoài bão. Nhưng đừng để lý tưởng che lấp nỗi đau người khác.
Chúng tôi chỉ muốn các em trở về đúng vị trí của những người trẻ tử tế – đứng về phía tự do, công lý, và sự thật.
VietRise – Chúng tôi đang gọi các em về (Anh Thư Đỗ)
Đinh Quang Anh Thái