Đọc lại “Tặng phẩm của dòng sông”, truyện ngắn của nhà văn Nhật Tiến

Tác giả: Nhật Tiến
Nhà văn Nhật Tiến (24/8/1936—14/9/2020). Photo: Khôi Nguyên/Người Việt.

Nhật Tiến

“Nhà văn Nhật Tiến tên đầy đủ là Bùi Nhật Tiến, sinh ngày 24 Tháng Tám, năm 1936, tại Hà Nội – là tên tuổi lớn trên văn đàn Việt Nam. Ông là tác giả tiếp nối của dòng văn học Tự Lực Văn Đoàn; và, bằng chính đời sống và sáng tác của mình, ông mở rộng những chủ đề và cả phong cách sáng tác theo dòng lịch sử đất nước. Có thể nói, lịch sử đặt ông vào những biến cố lớn của đất nước, để từ đó, thông qua ngòi bút của mình, ông trở thành tiếng nói của thời đại mà chính ông và gia đình là những nhân chứng sống. Năm 1954 ông di cư vào Nam, sống tại Đà Lạt, rồi Sài Gòn. Vượt biển vào Tháng Mười, 1979, và tỵ nạn tại Songkhla (Thái Lan) chín tháng. Ông và gia đình định cư tại California (Hoa Kỳ) từ năm 1980.”

“Về sự nghiệp văn chương, ông đoạt Giải Nhất Giải Văn Chương Toàn Quốc năm 1960-1961, với tác phẩm Thềm Hoang. Trước đó, năm 1952, truyện ngắn của ông lần đầu xuất hiện tại Hà Nội trên nhật báo Giang Sơn và những vở kịch trên tuần báo Cải Tạo năm 1953-1954. Tại Đà Lạt, năm 1954-1955, ông tiếp tục viết kịch truyền thanh cho đài radio tiếng nói của Ngự Lâm Quân. Từ năm 1958, tại Sài Gòn, 1958, ông tham gia Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh chủ biên.”

Trước năm 1975, tại Việt Nam, ông từng viết cho: Giang Sơn, Cải Tạo, Thời Tập, Chánh Đạo, Bách Khoa, Văn, Tân Phong, Văn Học, Đông Phương. Tại hải ngoại, từ năm 1980 đến nay, ông được mời xuất hiện trên nhiều tờ báo và trang web. Riêng tại California, ông đã từng viết cho: Người Việt, Sài Gòn, Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn Học, Việt Tide, Vietstream, Khai Phóng, Chấn Hưng, Việt Nam Hải Ngoại. Ngoài ra, ông còn có tác phẩm trên các báo Đất Mới (ở Seattle), Ngày Nay (ở Kansas City), Xác Định (ở Virginia). Xa hơn, bên ngoài Hoa Kỳ, ông có bài trên Chuông Saigon, Việt Luận, Chiêu Dương phát hành tại Úc châu, Lửa Việt tại Canada, Độc Lập tại Tây Đức), và Đường Mới, Quê Mẹ tại Pháp.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều thể loại: Truyện dài, truyện ngắn, truyện thiếu nhi, kịch-tiểu thuyết kịch. Đặc biệt, những năm sau này ông làm công việc khảo cứu gần như là văn học sử qua các tác phẩm Ghi Chép và Tiểu Luận.

Ngoài viết văn, ông còn là nhà giáo. Ông dạy học, và tham gia các hoạt động văn hóa, giáo dục và xã hội khác. Ông là người viết thỉnh nguyện thư và sau trở thành thành viên của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S. Committee), từ năm1980 đến 1990.

Các tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến đã phát hành:

Truyện dài:

-Những Người Áo Trắng (1959)

-Những Vì Sao Lạc (1960)

-Thềm Hoang (1961)

-Mây Hoàng Hôn (1962)

-Chuyện Bé Phượng (1964)

-Vách Đá Cheo Leo (1965)

-Chim Hót Trong Lồng (1966)

-Tay Ngọc (1968)

-Giấc Ngủ Chập Chờn (1969)

-Quê Nhà Yêu Dấu (1970)

-Mồ Hôi Của Đá (1988)

Truyện ngắn:

Đã viết hơn 100 tác phẩm, một số được giới thiệu trong các tuyển tập…

-Những Bước Tiên Của Tôi (1951, tuyển tập truyện và thơ chép tay đã thất truyền)

-Ánh Sáng Công Viên (1963)

-Giọt Lệ Đen (1968)

-Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972)

-Tiếng Kèn (1982)

-Một Thời Đang Qua (1985)

-Cánh Cửa (1990)

-Quê Nhà – Quê Người (1994, in chung với nhà văn Nhật Tuấn)

-Mưa Xuân (2013)

Truyện thiếu nhi:

-Lá Chúc Thư (truyện dài, 1969)

-Theo Gió Ngàn Bay (truyện vừa, 1970)

-Quà Giáng Sinh (truyện vừa, 1970)

-Đóa Hồng Gai (truyện vừa, 1970)

-Kể chuyện Tấm Cám (truyện ngắn, 1970)

-Ngày Tháng Êm Đềm (truyện vừa, 1972)

-Đường Lê Núi Thiên Mã (truyện dài, 1972)

-Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (hồi ký, 1973)

Kịch & tiểu thuyết kịch:

-Người Kéo Màn (tiểu thuyết kịch, 1962)

-Hạ Sơn (kịch lửa trại, 1973)

-Công Lý Xã Hội Chủ Nghĩa (kịch một màn, 1988)

-Một Buổi Diễn Kịch (truyện ngắn kịch, 1990)

-Một Khoảnh Đời Thường (kịch một màn, 2013)

-Ông Giáo Hồi Hưu (kịch một màn, 2013)

Ghi chép-Tiểu luận:

-Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan (1981, viết chung với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy)

-Thuyền Nhân – Vài Trang Bi Sử (2008)

-Hành Trình Chữ Nghĩa (2012)

-Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác (2012)

-Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi (2012)

-Một Thời… Như Thế (2012)

-Từ Hội Bút Việt Đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam (2016) 

*

Nhà văn Nhật Tiến qua đời lúc 11 giờ 26 phút trưa ngày 14 Tháng Chín, 2020, (tức 27 Tháng Bảy, Canh Tý), tại thành phố Irvine, Nam California, hưởng thọ 84

Nhà văn Nhật Tiến qua đời chỉ ít ngày “sau sự ra đi của hiền thê là nữ văn sĩ, dịch giả Đỗ Phương Khanh vào ngày 26 Tháng Tám năm 2020,” 

*

Tặng phẩm của dòng sông

Nó mắc lại ở bờ sông. Sợi dây thừng xỏ mũi vướng phải cái cột tre. Sóng nước đưa nó đi vòng quanh cho đến lúc nó dính cứng lấy cây cột. Bây giờ thì nó nổi lều bều và đen thui như một cái đụn nhỏ. Đấy là xác của một con trâu. Một con trâu chết trương trong lòng nước. Một con trâu nào đó, ở vùng nào đó, đã chết trong một trận giao tranh nào đó trong cuộc chiến vốn đang kéo dài đầy mệt mỏi này.

Xác con trâu có vẻ đã trôi qua một chặng đường dài. Những cọng rác cuốn theo đã kết lại, bám ở cổ, ở bụng, ở sừng. Bùn lẫn đất phù sa bắt đầu tạo thành ngấn ở làn da bụng chỗ mấp mé mí nước. Người ta trông thấy nó từ sáng sớm.

Thoạt đầu là lão Quới đi câu tôm. Lão quan sát nó kỹ càng rồi nhún vai bỏ đi. Xác con trâu trương xình làm lão nhớ đến những xác người cũng trương xình to như thế rải rác trên cánh đồng. Mùi tanh tưởi từ đó bốc lên làm lão lợm giọng. Lão mất cả hứng đứng câu tại chỗ quen thuộc có nhiều tôm lớn.

Sau đó là đám nghĩa quân của anh Bằng. Họ xúm lại quan sát con trâu bằng những cặp mắt nghi ngờ. Tụi nó vẫn thường có những cái trò gài mìn trên những bè lục bình cho trôi sông. Chiếc bè táp vô cầu và nổ tung. Con trâu này cũng nổi như cái bè vậy. Nhưng trên làn da đen thui nhếch nháp bùn và máu khô của nó, không chỗ nào mang một cái vẻ đã được gài mìn.

Anh Bằng sốt ruột, hươi cây súng xả một băng nổ dài. Có những viên trượt ra ngoài rơi lõm tõm xuống nước. Có những viên ghim lên mình con trâu, xé rách toang thành từng mảnh lớn. Nước sông ùa vào thêm, xác con trâu bị xô đi táp lại rời đổi vị trí cũ. Bây giờ bốn cẳng của nó ngửa lên trời. Một mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Cả bọn bịt mũi nhìn nhau rồi bỏ đi. Con trâu vẫn dính cứng lấy cây cột và nằm phơi ở đó đến chiều.

Chiều hôm ấy có một tốp người đến chiếu cố. Họ gồm một ông già, một thiếu phụ và một thằng con nít. Thằng nhỏ hăng hái lội xuống nước. Thiếu phụ đứng trên bờ ra vẻ ngần ngại. Còn ông già thì không nói, xăm xăm cầm sợi dây thừng chờ thằng nhỏ bơi tới con trâu là quẳng cho nó buộc. Thân mình của thằng bé ốm tong teo, bờ vai xương xẩu, làn da đen đúa, đầu tóc rối xù. Dưới làn nước đục ngầu và đầy rác rưởi, trông nó như một con chó nhỏ xấu xí, bẩn thỉu đang ngụp lội. Nó xoải tới trước cái cọc tre. Chiếc cọc bây giờ nghiêng đi vì sức nặng bấu víu của con trâu. Bàn tay nhỏ xíu của nó lần tới đầu mối của sợi thừng. Nó gỡ ra một cách nhanh nhẹn. Con trâu được giải thoát khỏi cây cọc và nằm trong tay dẫn dắt của thằng nhỏ. Thằng nhỏ rít lên một tiếng thích thú.

Đã lâu lắm nó mới được bơi dắt một con trâu trong lòng nước. Nhưng con trâu ngày xưa biết bơi, biết lội, biết ngoan ngoãn giơ lưng cho nó trèo lên và nhìn nó bằng đôi mắt hiền từ. Bây giờ con trâu lại nằm ở cái tư thế lật ngửa, bốn vó chổng lên trời, phơi cái bụng toang hoác những xương cùng thịt bầy hầy và xông lên mùi thối tha buốt tới tận óc. Nương theo dòng nước, thằng bé lái được con trâu vào bờ. Mọi người xúm lại giúp nó kéo con trâu lên bờ cỏ.

Mình trâu nát bét những vết đạn, có chỗ bị mở banh ra, thịt cháy đen xạm, lại còn có từng mảng máu đã khô đen lại nom như những mảng nhựa đường. Tuy nhiên, nhìn cho kỹ thì cũng vẫn có vài chỗ còn xài được. Bốn cái đùi vạm vỡ, ức nở to chắc nịch, xẻ ra phải được hàng chục ký thịt. Còn hơn là ăn mãi củ mài hay đọt chuối. Cuộc chiến ở đây kéo dài cả năm nay rồi còn gì.

Ông già vận sức bẩy được xác trâu vào một bờ cỏ. Thiếu phụ giở xách tay ra soạn một mớ dao to, dao nhỏ. Có cả cái cưa tay tuy cùn nhưng chắc là sẽ đắc dụng. Một đùi trâu được banh ra. Thịt bên trong chưa đến nỗi ngả mầu xám xịt. Một vài gân máu còn giữ được mầu đỏ tươi. Mầu đỏ làm cho ai nấy đều sáng lên những nét hăm hở, rạng ngời.

Bỗng từ xa phóng tới một bóng người. Tiếng cười the thé lan tới, trước khi thân hình bẩn thỉu rách rưới của gã ta xuất hiện. Trông gã không ra dáng một con người. Da gã tái mét, mắt đỏ rừng rực như hai đốm lửa, hàm răng trắng nhởn, khấp khểnh như răng bò, cái lưỡi lúc nào cũng như thè lè ra, nhễu cả rãi lẫn rớt. Gã đứng ngất ngư, hai cẳng chân đong đưa như hai ống sậy. Cánh tay phải còn lành lặn ve vẩy trước mặt, còn tay trái gẫy một nửa để phơi ra ngoài một lớp da rúm ró, trầy trợt, dính đầy bùn và đất bẩn.

Gã mở to mắt nhìn con trâu. Phẩm vật bất ngờ làm gã vui thích. Gã ré lên cười cầu tài với mọi người. Hai chân gã nhẩy cẫng lên, chạy tới chạy lui, hết ngó ông già lại ngó thiếu phụ, hết ngó thiếu phụ lại xán tới gần thằng nhỏ. Thằng nhỏ liệng cho gã một mẩu da thừa. Gã cười lên thành những tiếng khẹt khẹt. Cặp mắt rực lửa, rãi rớt chẩy ra lòng thòng. Cánh tay lành lặn ve vẩy rối rít. Ông già thấy vậy vội la lên: – Mày rỡn với nó thì hết ngày. Mặc nó!

Vẻ mặt đang hớn hở của gã què bỗng nhiên xịu xuống. Gã quay lại nhìn chòng chọc về phía ông già, ánh mắt thù hận. Ông già trừng mắt lên nhìn, rồi chợt hù lên hai tiếng “Bùm! Bùm!”. Gã đàn ông xanh mặt vội che tay lên đầu, vừa chạy vừa la thảm thiết. Rõ ra là gã đã bị bệnh thần kinh khi nghe thấy tiếng súng. Thằng nhỏ thì lại thích chí phá lên cười. Nó còn dọa gã tiếp theo bằng một tràng súng liên thanh bắn bằng mồm nghe y như thật. “Đoàng! Đoàng!” Gã đàn ông hốt hoảng lao đầu vào một bụi cây, bàn tay còn lại của gã cào xé xuống nền đất bẩn nom như một con vật đang vội vã đi tìm một nơi trú ẩn.

Sự việc xẩy ra có vẻ làm cho thiếu phụ đứng đó cảm thấy bất nhẫn. Nàng hơi nhăn mặt với ông già rồi lừ mắt nhìn đứa nhỏ. Thằng bé vội vàng cúi xuống cưa nốt mảng đùi trâu đang gần đứt lìa. Đến sẩm tối thì con trâu không còn nguyên hình thù lúc trước. Một đống thịt bầy nhầy được bó lại và buộc gọn trên một cây đòn. Trên mặt đất, phần xác trâu còn lại nom toét hoét với những mảnh xương trắng hếu xen lẫn với những mảng tiết đen xì. Mùi hôi thối xông lên nhức óc.

Ông già hạ lệnh: – Thôi, đi! Thiếu phụ hỏi: – Còn cái đống này? – Ông già nói: Kệ nó! – Rồi mai nó bốc mùi đi khắp chỗ, chịu không thấu đâu. – Vậy liệng đại nó xuống sông cho rồi!

Ba người lại hì hục một chuyến nữa. Xác của con trâu lại được trả về với dòng nước đục ngầu. Lần này nó không còn nổi được trên mặt sóng. Sau một tiếng “ùm” kéo theo những bọt nước tung tóe, cái hình thù kỳ dị của nó trôi phăng đi và dần dần chìm sâu trong đáy nước.

Trên đường trở về, ba người đi một cách vội vã. Những đốm đạn lửa đỏ lừ đã thấy xuất hiện trên nền trời tím xẫm, chỗ ngang mé đồn có tháp canh cao vòi vọi. Đồng quê im ả một cách ghê rợn, tựa hồ tất cả như đang chìm trong một vùng đất chết. Không có tiếng chó sủa, không có bóng người đi, không cả dáng trâu quen thuộc đang về chuồng lúc còn thuở thanh bình.

Cả ba người lầm lũi bước đi như ba cái bóng chập chờn trong ánh sáng nhá nhem của buổi chiều sắp tắt. Chỉ ở phía đằng sau, cách họ một khoảng khá xa là còn có một đôi mắt đang dõi theo dấu chân của ba người. Đôi mắt rực lửa. Đôi mắt đỏ lừ. Đôi mắt của gã đàn ông mất trí sau những trận đụng độ kinh hồn từng xẩy ra đây đó trong vùng. Gã lủi theo ba người như một con chó ghẻ không dám chường mặt ra trước mọi người. Dẫu sao thì gã vẫn còn sợ tiếng súng phát ra từ mồm ông già, tiếng nổ ròn rã qua miệng đứa trẻ, giống hệt ngày nào cả gia đình gã bị thiêu đốt trong lửa đỏ giữa những tràng đạn liên hồi nổ ở cả bốn phía. Gã theo riết ba người, đi qua những con đường mấp mô, băng qua từng hố bom, hố mìn sâu hoắm, những thềm nhà hoang cháy xám xịt, cả những thân dừa gẫy gục, những chum nước cạn khô và những nếp tường vôi nghiêng đổ đã lên mầu rêu xanh. Cuối cùng thì toán ba người chui xuống một căn hầm tối. Cánh liếp che bên trên được kéo lại và ngăn đôi gã đàn ông với thế giới nhỏ nhoi của ba người.

Thế là gã đàn ông chỉ còn lại có một mình! Gã bực bội ngồi bệt lên một thân dừa nằm chắn ngang lối đi. Bóng tối bây giờ bao trùm hoàn toàn xuống cảnh vật chung quanh. Gã có cảm giác như mình đang bị chôn sống trong một khu mộ tối. Gã không còn biết mình đang ở đâu, đang làm gì và hắn giữ cái vai trò gì ở cái chốn đồng quê hiu quạnh và khốn khổ này. Hình ảnh gần gũi nhất đối với gã bây giờ là hình ảnh của con trâu nằm tênh hênh trên mặt cỏ bị những lưỡi dao sáng loáng lóc từng mảng thịt.

À thì ra con trâu! Hẳn nó vẫn còn nằm ở đó! Gã chợt nhẩy lên khi nghĩ ra rằng, ba người kia đã chui xuống hầm thì gã sẽ được tự do làm chủ tất cả phần bỏ đi, còn lại. Thế là hai cẳng chân của gã quẫng lên. Gã vội vã băng qua những thân dừa gẫy đổ, những đống tàn tro và gạch vụn, qua cả những hố bom, hố mìn. Chắc lúc đó, trong bóng tối, lưỡi của gã lại thè ra, rớt rãi lòng thòng.

Một lát sau, gã mò được ra tới bờ sông, tới đúng chỗ những mảnh thịt vụn và đám tiết đông xám ngoẹt vẫn còn đang bốc mùi. Nhưng con trâu không còn ở đó. Gã rụi mắt nhìn vào bóng tối để xục xạo từng bờ cây, bụi cỏ. Nhưng bốn bề quanh gã chỉ có tiếng nước vỗ óc ách vào mạn bờ, và ở phía đằng xa, rất xa, tiếng bom dây trút xuống một vùng nào nghe rền rĩ như tiếng rên la của mạch đất đang cựa mình. Tuy vậy không thể vì thế mà gã bỏ cuộc. Gã bám riết lấy ý nghĩ mình là sẽ được làm chủ gần nguyên cả một con trâu. Gã cũng sẽ lóc thịt, cũng sẽ xỏ vào một cây đòn dài, sẽ khiêng một mình vào một căn hầm tối nào đó. Gã sục sạo đây đó. Mùi hôi thối quanh đây báo cho gã biết là gã không tìm nhầm chỗ. Nó đúng ở chỗ này. Nó đã nằm tênh hênh trên nệm cỏ, phơi thân hình rách toác dưới nắng xế của một buổi chiều sắp tắt. Sự tin tưởng làm gã không muốn bỏ đi. Gã ngồi xuống một mô đất nhỏ. Gã sẽ chờ đến sáng mai. Con trâu sẽ là của gã. Gã sẽ là chủ. Gã sẽ được lóc thịt, không ai có quyền đuổi gã đi như ông già đã xua đuổi gã lúc buổi chiều.

Và gã đã chờ đến tận sáng hôm sau. Ánh sáng lùa vào đôi mắt của gã như trút cả một vầng tia chói lọi. Thì ra đêm qua gã đã ngủ thiếp đi từ lúc nào. Lúc mở mắt ra, gã choàng tỉnh táo ngay vì cái mùi hôi thối đêm qua lại xộc vào đến tận phổi. Điều này làm gã nhớ ngay đến con trâu. Gã bật dậy, dáo dác đi tìm. Gã chợt réo lên to một tiếng rồi cất giọng cười. Gã đã tìm thấy con trâu! Con trâu đang nằm trương lên, xác vướng vào một cột tre dùng làm chân cầu. Gã thấy rõ cả cái bụng phồng to lên, tím ngăn ngắt. Gã lấm lét nhìn quanh, thấy chẳng có ai, thế là gã nhẩy ùm xuống nước và bơi lại gần. Bây giờ thì bàn tay còn lại của gã đụng được hẳn vào mình con trâu. Hình như nó có vẻ khác thường. Nó không hẳn là một con trâu. Trên mình nó có cả những mảnh quần áo rách bươm, ướt sũng nước. Nhưng gã cần gì! Cái xác này cũng trương to như xác một con trâu. Lại còn nguyên vẹn chưa có ai cầm dao lóc thịt. Lại chính là của gã. Một mình gã đã tìm ra. Nó sẽ là của riêng gã. Không kẻ nào dám bắn súng “bùm bùm” để xua đuổi gã đi như thằng nhỏ và ông già kia đã làm. Gã rít lên cười thích thú. Mắt gã đỏ ngầu nhìn con mồi một cách say sưa. Gã cố gắng thò cánh tay còn lại, cánh tay độc nhất ra gỡ một đụn tóc đang vướng phải cây cột cầu tre. Và rồi, bắt chước cử chỉ của thằng bé ngày hôm qua, gã lôi được cái xác vào bờ. Gã đang nghĩ đến một chỗ nào khuất nẻo để che giấu tặng phẩm bất ngờ của mình. Một căn hầm bí mật nào đó. Một mái nhà sụp nghiêng. Một bể nước khô cạn. Hay một hố bom, hố mìn rất sẵn, nằm rải rác trên cánh đồng hiu quạnh của đồng quê tan nát, điêu tàn này. Ở đó gã sẽ tìm cách mổ xẻ tặng phẩm của dòng sông như hồi chiều hôm trước đã có người làm như vậy.

Nhật Tiến
Sài Gòn (1973)
Đinh Quang Anh Thái giới thiệu.

Author

Có thể bạn cũng quan tâm

Pin It on Pinterest

Tạp chí Thế Kỷ Mới