Khúc Tương âm bốn phương
Trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam, ít có danh xưng nào mang nhiều tầng nghĩa như hai chữ Cô Đầu. Ban đầu, đó chỉ là cách gọi trân trọng dành cho người phụ nữ có tài ca hát trong các giáo phường ca trù – những người giữ nhịp phách, nâng giọng hát và dìu cảm xúc người nghe bằng tiếng đàn, tiếng trống chầu… Rồi theo dòng thời gian, Cô Đầu không những chỉ là một danh xưng mà nó trở thành một nghề nghiệp, một thân phận, biểu tượng vừa sáng rực, vừa buồn lặng trong ký ức văn hóa Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử, người phụ nữ Việt Nam không chỉ hiện diện trong vai trò người mẹ dịu hiền, người vợ tảo tần, mà theo dòng chảy văn hóa còn là nghệ sĩ tài hoa – góp phần gìn giữ hồn cốt dân tộc qua tiếng hát, lời thơ, và khí chất sống.
Cô đầu không đơn thuần là một nghề mưu sinh. Đó là kết tinh của một quá trình kéo dài nhiều thế kỷ, nơi nghệ thuật, tri thức, thẩm mỹ và thân phận người phụ nữ giao thoa. Từ thần tích Ca Trù Lỗ Khê năm 1476 – văn bản cổ ghi chép về tổ nghề – cho đến thơ văn của các bậc trạng nguyên, hình ảnh đào nương đã gắn liền với sinh hoạt nghi lễ, với những đêm tao đàn, và cả những giai thoại tình cảm lãng mạn nảy nở với giới sĩ nho.
Hình ảnh cô đầu xuất hiện từ thế kỷ XV, dưới triều Lê sơ, trong không gian cung đình qua các nghi lễ hoàng gia – nơi mà ca trù triển tấu buổi tế tự, khao thưởng, tiếp sứ, và các lễ nghi trọng thể khác nữa. Khi ấy, cô đầu không chỉ là người hát, mà là một phần trân trọng của nghi lễ, là người giữ nhịp giữa nhân gian và đấng thiêng. Giai thoại nàng Nguyễn Thị Huệ – ca nương Cựu Lâu được chúa Trịnh Cương phong làm Ngọc Kiều Phu Nhân – cho thấy địa vị đặc biệt của những người phụ nữ tài sắc ấy.
Từ cung đình, ca trù đã dần lan tỏa ra dân gian, phát triển mạnh mẽ ở miền Bắc – đặc biệt vùng Thăng Long, Kinh Bắc, Hải Dương, Bắc Ninh – nơi hình thành các giáo phường chuyên nghiệp. Ở đó, cô đầu không chỉ hát xướng, mà còn trà đạo, đối thơ, bình văn để trở thành tri kỷ của giới văn nhân tao nhã. Trong những đêm sáng trăng, tiếng phách, tiếng đàn và tiếng người hòa vào nhau thành một; không gian vừa thanh, vừa tĩnh, vừa thấm đẫm nhân tình. Không gian tao đàn của họ từng được ví như “cái nôi văn nghệ thành Thăng Long” – nơi thi phú, trà rượu, cầm ca, và tình người giao hòa.
Từ thuở ban đầu, danh xưng Cô Đầu gắn liền với hát ả đào, hát ca trù ở miền Bắc – một thể loại nghệ thuật bác học kết hợp thơ – nhạc – nghi lễ ; rồi theo thời gian, lan tỏa dần vào miền Trung và sau này là miền Nam, mang theo cùng một khí chất: tiếng hát cẩm tú, phong thái thanh tao, và nhất là lòng tự trọng của người nghệ sĩ chân chính.
Ở Miền Trung, những ca nữ cung đình Huế – gọi là ca nương đầu – vẫn mang chung khí tiết ấy. Họ nghiêm cẩn nhưng thanh thoát giữa tiếng đàn tranh, đàn nguyệt…, hát lên những khúc Nam Ai, Nam Bình… cho vua quan thưởng thức. Trong dáng ngồi, ánh mắt, giọng ca, ta vẫn nhận ra nét vẻ kín đáo, tự trọng và tấm lòng biết giữ mình – không chỉ riêng trong vòng nghi lễ cung đình, mà còn là mọi nơi mọi lúc – chính là cái phẩm của cô đầu đất Bắc trong một không gian khác.
Vào Miền Nam, những buổi đàn ca tài tử trên ghe bầu hay trong nhà cổ, người ta gặp lại những bóng dáng tương tự : những Cô Đào Tài Tử thanh thản pha trà, gảy đàn, ca bài bản – giữ mạch tâm tình cho người tri âm. Người đời thường gọi là Cô Đào Hát, nhưng bản chất nghề nghiệp và tâm thế vẫn là một: sinh sống bằng tiếng đàn lời ca, nghĩa là bằng nghệ thuật, bằng sự tinh tế và kín đáo của tâm hồn người đàn bà biết tỏ và cũng biết lắng nghe.
Như thế, tự Bắc chí Nam nước ta, tuy tên gọi và thể loại nghệ thuật có khác nhau ít nhiều, nhưng nghề cô đầu vẫn là một mạch văn hóa thuần nhất – biểu trưng cho cái đẹp biết chừng mực, biết hiến dâng, và biết ẩn mình sau những tiếng đàn, nhịp phách.
Thế nhưng, cũng chính vì vị thế lơ lửng – không thuộc về triều đình, cũng không trọn trong gia tộc – mà cô đầu luôn đứng trên lằn ranh mong manh giữa trọng đãi và ghét bỏ. Khi xã hội đổi thay, đặc biệt vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hệ thống giáo phường sụp đổ, môi trường diễn xướng biến mất, cô đầu mất đi bệ đỡ. Họ bị đồng hóa với “gái hát”, rồi “gái làng chơi”, sau đó dần dần gần như biến mất khỏi đời sống hiện thực.
Theo báo Trung Bắc Chủ Nhật (1938), riêng ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát cô đầu và gần 2 000 đào nương – con số phản ảnh sự phổ biến nhưng cũng gợi nỗi lo ngại trong thời kỳ đô thị hóa. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ có lần châm biếm :
“Quan viên ba bảy quan viên
Chém cha cái loại lấy tiền vung văng…”
cho thấy cái nhìn xã hội luôn pha trộn mâu thuẫn giữa ngưỡng mộ và phê phán.
Trong văn học thế kỷ XX, Cô Đầu trở lại như một nhân vật tiêu biểu : vừa hoài cổ, vừa tài hoa, vừa đẹp buồn, vừa bất lực trước thời cuộc. Các nhà văn như Tô Hoài trong Cát Bụi Chân Ai đã nhắc đến các cô đầu già sống âm thầm bên rìa Hà Nội, như Vũ Bằng trong Thương Nhớ Mười Hai tái hiện một không gian ký ức đầy hương trà, tiếng phách và nỗi lặng lẽ của những người từng một thời là tâm điểm nghệ thuật. Trong thi ca, họ là hình ảnh phảng phất giữa hai chiều thời gian – vừa vĩnh cửu, vừa mong manh.
Khi làn sóng văn hóa Tây Phương tràn sang nước ta, đặc biệt từ thời Pháp thuộc, nghề cô đầu dần bước vào giai đoạn đầy biến động. Những đô thị phát triển mạnh mẽ, Hà Nội, Hải Phòng cũng như các thành phố lớn khác xuất hiện những rạp hát, rạp chiếu bóng, phòng trà, quán nhạc sống. Đồng thời ở Miền Nam, tân nhạc nhanh chóng lên ngôi độc tôn. Ca cổ vốn là nghệ thuật bác học dành cho giới sĩ phu dần bị coi là lạc hậu. Nhiều cô đầu mất môi trường diễn xướng, buộc phải nhanh chóng thích ứng: người thì chuyển sang hát cải lương là thể loại ca nhạc diễn xuất mới phát triển, kẻ bước vào phòng trà tân nhạc, và cũng có một số những ai cam tâm chịu rơi vào cảnh thanh bần. Từ hình ảnh một nghệ nhân, Cô Đầu lâm vào thân phận pha trộn giữa nghệ thuật và sinh tồn, giữa tôn vinh và ruồng bỏ.
Đó cũng là lúc hình ảnh và danh xưng Cô Đầu bị bóp méo trong tâm thức công chúng. Những giá trị họ từng đại diện – nghệ thuật, tri thức, phẩm hạnh – dần bị lãng quên; cùng với sự giằng xé giữa định kiến đạo đức Tây Phương và khái niệm Nho Giáo cũ, họ bị đẩy ra rìa xã hội, trở thành cái bóng u hoài của một nếp văn hóa không còn đất sống.
Cô Đầu là những người đàn bà cô đơn, có tình mà không có phận. Họ sống trong ánh đèn và tiếng vỗ tay, nhưng khi đêm xuống, chỉ còn tiếng đàn vọng lặng lẽ và nỗi trống vắng nào ai hay. Họ được yêu, được ngưỡng mộ, nhưng hiếm khi được cưới hỏi đường hoàng. Họ là người yêu trong bóng tối kín đáo, là tri kỷ bị quên lãng ngay sau đó, là cái đẹp chỉ được nâng niu nhất thời rồi rơi rụng theo thời cuộc.
Cô Đầu nước ta không phải là bóng hình riêng lẻ, trên khắp thế giới, người ta vẫn thấy những người chị em như thế, những phụ nữ sống bằng nghệ thuật và lại hẩm hiu trong nghệ thuật :
– ở Paris thế kỷ XIX có Courtisane – kỹ nữ sang trọng sống giữa hoa trà và nỗi cô độc ;
– Venice có Cortigiana onesta – những phụ nữ đàn lute, đọc thơ cùng triết nhân;
– Nhật Bản có Geisha, ở Triều Tiên có Kisaeng, ở Ấn Độ có Tawaif;
– Trung Hoa có Kỹ Nữ Trường An ngâm thơ gảy đàn…
Những người ấy – tuy khác thời gian, không gian, và ngôn ngữ cũng như văn hóa – nhưng đều chung một dáng đi, một nốt ngân, một nỗi cô đơn ngậm ngùi.
Từ những nghịch lý ấy, người viết – mang trong tâm niềm cảm thương sâu sắc về số phận người nghệ sĩ – mong muốn kể lại những câu chuyện thầm lặng đẫm nước mắt của những Cô Đầu từng sống và hát dưới ánh đèn mà âm thầm cõng trên lưng bóng tối trĩu nặng. Đó là những mảnh đời bị chôn vùi giữa ký ức nghệ thuật và định kiến xã hội, những người phụ nữ đã hiến cả tuổi xuân, cả tài hoa, cả trái tim cho một nghệ thuật mà với họ là thiêng liêng. Họ là những người đàn bà không được ghi tên trong sử sách như những văn thi sĩ, hay tướng lãnh, nhưng chính họ cũng đã góp phần không nhỏ trong lặng lẽ việc giữ gìn và truyền lại tinh hoa văn hóa nghệ thuật.
Những truyện ngắn viết về các Cô Đầu này là để gợi lại phần nào ký ức đã chìm vào lãng quên, là mô tả vẻ đẹp mà nếu ta không trân trọng nó sẽ biến mất vĩnh viễn. Nhưng nếu ta giữ được – dù chỉ bằng một câu hát, một dáng ngồi, một vở diễn – thì đó chính là cách ta nối lại mạch sống tinh tế của văn hóa Việt Nam nói riêng.
Tập truyện ngắn : Khúc tương âm bốn phương – Trúc Tiên

Từ những ngày người đời còn khắc tên anh hùng bằng gươm sáng, đã có bóng những Cô Đầu đi qua nhân gian nhẹ như lụa cuốn, bị gọi là “xướng ca vô loại”, bị vùi bên lề sử sách. Nhưng ta – chính là Thời gian – chưa từng quên họ. Giữa những lớp sương vĩnh cửu, họ vẫn hiện về : cô đầu Thăng Long, geisha Phù Tang, kisaeng Hàn Quốc, tawaif Ấn Độ, gējì Trung Hoa, và cả courtisane Manon cũng bước ra từ những đại sảnh phấn hương của nước Pháp… Những tên gọi khác nhau, những quê trời khác nhau – nhưng tất cả đều mang một ngọn lửa: dám hát chống lại lãng quên. Khúc Tương Âm Bốn Phương được dệt từ những phận đời có thật, những linh hồn mong manh như bóng hồ, mà tiếng đàn họ gửi lại vẫn ngân qua muôn thế hệ – không bao giờ im tiếng. Lật những trang sách này để nghe họ, tiếng nỉ non.
Trúc Tiên
……………
Về tác giả
Trúc Tiên sinh tại Mỹ Tho, sang định cư tại Pháp từ năm 10 tuổi.
Tiến sĩ Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Sorbonne (Pháp).
Giảng thuyết tại Bảo tàng Louvre (Paris), đồng thời gắn bó sâu sắc với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam trong vai trò tác giả kịch bản, soạn giả và diễn viên-hát.
Trúc Tiên từng cộng tác với nhiều tạp chí văn hóa, nghệ thuật và phê bình văn học Pháp, cũng như viết bài cho báo chí Việt Nam tại Pháp và các ấn phẩm của cộng đồng hải ngoại.
Dịch giả văn học Việt ngữ sang tiếng Pháp, chị đã chuyển ngữ và giới thiệu nhiều tác phẩm văn học Việt Nam ra quốc tế, tiêu biểu như:
– La Tache (Vết nhơ), tuyển tập truyện ngắn của Đặng Mai Lan – Pháp
– La Mer de soie (Biển lụa), tiểu thuyết của Bích Ty – Hoa Kỳ
– Une semaine, une vie (Một tuần một đời), tiểu thuyết của Đặng Mai Lan – Pháp
– Perle noire (Ngọc đen), hồi ký của Pauline Ngọc – Đức
Tác phẩm đã phát hành:
– Lan & Điệp – song ngữ Pháp-Việt – kịch bản, chuyển thể từ tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng của Nguyễn Công Hoan.
– Cô Đầu lầu gió ngược – Việt ngữ – truyện ngắn Trúc Tiên.
– Phi Vân, la courtisane au pavillon du vent contraire – pháp ngữ – truyện dài, nguyên tác Cô đầu lầu gió ngược – Trúc Tiên.
– Khúc tương âm bốn phương – Việt ngữ – tập truyện ngắn – Trúc Tiên.