(Gặp gỡ trò chuyện với hậu duệ của cụ Mai Khắc Đôn, nghe kể một vài kỷ niệm về Hoàng Phi Mai Thị Vàng (Vợ vua Duy Tân, con gái của quan thượng thư Bộ Lễ Mai Khắc Đôn)

Đầu tháng 10/2025, tôi có dịp về Huế và lên thăm chị Mai Thị Thanh Xuân, Chị năm nay đã 87 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, nhanh nhẹn. Tôi quên biết chị đã hơn 30 năm nay, chị em chơi thân với nhau. Chị coi tôi như đứa em nhỏ. Thực ra thì chị còn lớn tuổi hơn cả mẹ tôi. Nhưng chị bảo gọi chị cho thân mật gần gũi. Chị khéo tay, biết nấu một số món đặc trưng trong cung đình, làm các loại bánh và rất rành ẩm thực truyền thống Huế. Từ thuở nhỏ, chị đã được mẹ, cô dì dạy cho bí quyết chế biến các món và làm các loại bánh, tôi thích nhất là loại bánh đậu xanh trái cây. Còn gọi là bánh “quý tộc” bởi có nguồn gốc từ nền ẩm thực cung đình, dùng tại các yến tiệc trong Hoàng Cung, hoặc trong dịp lễ tết của gia đình quan lại và quý tộc, thời xưa. Nguyên liệu từ đậu xanh, làm thành những trái cây như: trái khế, trái ớt, trái cà chưa, trái ớt,… y hệt về màu sắc và kiểu dáng. Thoạt nhìn tưởng trái cây, chỉ khi bạn cầm cái bánh lên ngắm nghía và cắn một miếng thì mới biết bánh đậu xanh vừa ngọt vừa bùi.

Nhưng tôi không biết chị là cháu nội của Cụ Mai Khắc Đôn (Quan Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Duy Tân). Và cũng là cháu gọi Hoàng Phi Mai Thị Vàng bằng cô ruột. Hôm nay có dịp lên nhà thăm, chị mới kể cho tôi nghe. Thế là tôi làm một cuộc phỏng vấn nhỏ:
– Xin chị kể lại một vài kỷ niệm với người cô ruột Hoàng Phi của mình!
Đôi mắt chị nhìn xa xăm vào khoảng không như ngược miền ký ức chị bắt đầu chậm rãi kể (điềm đạm, chỉnh chu và từ tốn là phong cách của chị và cũng là của phụ nữ Huế xưa).
Chị kể lúc nhỏ thì mỗi lần đi chạp giỗ đều gặp bà Phi. Bà Phi đẹp và hiền lành. Bà sống qua các thời đại thì thời đại nào bà cũng có được hưu bổng. Nhưng cũng eo hẹp sống giản dị. Hồi đó mình lấy chồng rồi cũng bận rộn công việc và chồng con, chỉ mỗi khi kỵ giỗ Hiệp Kỵ các vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân thì bên Hoàng tộc mời con cháu qua. Mình giờ nghĩ lại thật tiếc: “Có ngọc mà không biết trau”. Lúc còn nhỏ có cơ hội gần bà Phi mà không thường xuyên gần bà để học hỏi. Bà hiền thục, giỏi dang lại chung thủy và hiếu đạo”. Có dì em là dì Yến (Trần Thị Yến Tuyết con người em gái của Hoàng phi Mai Thị Vàng, (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn). Bà Mai Thị Vàng là chị cả, có hai anh trai và 3 em gái là Mai thị Khánh, Mai Thị Quế và Mai Thị Hường). Dì Yến khi lập gia đình rồi vẫn ở với ba mẹ. Bà Phi thường ghé thăm em gái của mình nên dì Yến có cơ hội gặp gỡ bà Phi nhiều hơn”.
Rồi chị Thanh Xuân đưa tôi lên thăm dì Yến ở đường Lê Ngô Cát (Huế)
Dì Yến năm nay cũng đã 89 tuổi, vẫn minh mẫn, hồng hào và khỏe khoắn. Tôi gọi chị Xuân quen rồi nên chị Yến bảo gọi chị như Chị Xuân cũng được, cho gần gũi thân thương. Ở các chị là con cháu của Cụ Mai Khắc Đôn phong thái toát lên sự nho nhã, có kiến thức, am hiểu của những người phụ nữ dòng dõi trâm anh, gắn bó với vùng đất Kinh Kỳ, với các món ăn Huế, rành rõi từ nguyên liệu đến cách chế biến, nghệ thuật trang trí,…
Nghe hai chị hỏi nhau rằng:
– Chị Trà đã mời dì qua đám giỗ chưa?
Hóa ra nghệ nhân Mai Thị Trà là chị em họ của hai chị và cũng là cháu nội của Cụ Mai Khắc Đôn. (Chị Mai Thị Trà là giáo viên Văn của trường Đồng Khánh, sau 1975, chị được phân công dạy thêm môn Nữ công gia chánh. Từ đó chị nổi tiếng với nấu các món Huế từ cung đình đến bình dân và chị trở thành nghệ nhân ở lĩnh vực này. Chị Trà năm nay cũng đã 91 tuổi, cũng còn minh mẫn và khỏe mạnh. Hai chị kể, chị Trà bây giờ làm việc còn nhanh nhẹn hơn cả hai chị nữa. Các chị được gia đình cho học chữ, rồi được mẹ, cô, dì dạy cho cách làm các loại bánh, nấu các món để cúng tổ tiên. Riêng nghệ nhân Mai Thị Trà thì có duyên gắn bó với bộ môn ẩm thực. Năm 1991, sau khi nghỉ dạy văn hóa ở trường, chị Trà dành trọn tâm huyết để truyền đạt kinh nghiệm, bí quyết chế biến những món ăn cung đình, truyền thống Huế cho các thế hệ học viên.
Các chị: Mai Thị Thanh Xuân, Trần Thị Yến Tuyết, Mai Thị Trà,… con cháu của quan Thượng thư, xuất thân trong gia tộc quyền quý. Nay đều ở ngưỡng trên dưới 90, nhưng vẫn minh mẫn, đằm thắm, ân cần khi tiếp chuyện, trong phong thái của những người phụ nữ vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt. Giọng Huế ngọt ngào, điềm đạm và dịu dàng. Nét đẹp duyên xưa vẫn còn lưu lại trên khuôn mặt, dẫu đã ghi dấu ấn thời gian, cuối mùa thu của cuộc đời.
Được các chị giới thiệu, hôm 5/10/2025 tôi lên thăm phủ đệ (nay là nhà thờ) của cụ Mai Khắc Đôn ở đường Lý Nam Đế thuộc hậu thôn Kim Long. Được thăm lại nơi ở, nơi thờ tự của cụ và Hoàng Phi Mai Thị Vàng. Lòng tôi rưng rưng tràn đầy xúc cảm khi nhìn cảnh cũ nhớ người xưa, những con người đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử. Tôi quyết định ghi lại một chút gì đó của lớp người hậu thế, góp một phần nhỏ nhoi để tri ân và tưởng nhớ về những vị tiền nhân đã lưu lại tiếng thơm cho một giai đoạn lịch sử, đầy biến động.
Phủ đệ của cụ Mai Khắc Đôn là một ngôi nhà cổ giản dị, lợp bằng ngói liệt xưa. Tọa lạc tại một mảnh vườn xanh tươi cây trái, ở một vùng quê thanh bình thuộc phường Kim Long, TP Huế. Ngôi nhà chịu ảnh hưởng của mưa nắng thời gian, được con cháu trùng tu năm 2009. Căn nhà trên kiểu nhà rường bằng gỗ, đẹp thanh nhã. Tôi được gặp bà Nguyễn Thị Mai (cháu dâu) thường gọi là bà Lưu. Bây giờ là chủ nhân của phủ đệ. Chồng bà là ông Mai Khắc Lưu (đã mất) là cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn, Bà Mai năm nay đã 89 tuổi, nhưng bà vẫn minh mẫn và ân cần vui vẻ tiếp chuyện. Bà là người gần gũi với bà Phi Mai Thị Vàng trong những năm tháng cuối đời. Bà Mai kể: “Bà cô tôi đẹp mà hiền lắm! Ít nói, sống giản dị và rất thương con thương cháu”. Tôi cũng được gặp gỡ, trò chuyện với chị Mai Thị Nhàn con gái bà Lưu, chắt nội của cụ quan thượng thư Mai Khắc Đôn.
Trong nhà thờ còn lưu giữ nhiều sắc phong được vua ban tặng cho cụ Mai Khắc Đôn và song thân của cụ. Các chị kể là các con dâu của cụ khi nói về bố chồng là cụ Mai Khắc Đôn rằng: Ông hiền như Phật.
Bà Mai Thị Vàng sinh trưởng trong một gia tộc quyền quý như thế, được thừa hưởng truyền thống văn hóa, nền giáo dục nghiêm cẩn của gia đình, bà thông minh, đức hạnh, đẹp người và đẹp nết.
Qua câu chuyện của các chị Mai Thị Thanh Xuân, Chị Trần Thị Yến Tuyết, bà Nguyễn Thị Mai và chị Mai Thị Nhàn và tìm đọc thêm tư liệu trên Wekipedia tôi xin tóm tắt lại như sau:
Cụ Mai Khắc Đôn (1853-1930) thân phụ là ông Mai Bá Hanh, quê ở hậu thôn Kim Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông là một nhà nho yêu nước, làm quan nhà Nguyễn dưới hai triều đại vua Thành Thái và vua Duy Tân. Từng làm quan tuần phủ (còn được gọi là tuần vũ), tỉnh Khánh Hòa, sau đó cử đến làm quan tuần phủ Quảng Trị, là một vị quan thanh liêm, biết lo cho dân. Rồi ông được mời về Kinh dạy vua Duy Tân. Mặc dù Tòa Khâm sứ đã cử các thành viên trong Phủ phụ chính làm thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân, nhưng ông từ chối, ông chọn viên Tuần phủ Quảng Trị Mai Khắc Đôn làm quan phụ đạo của mình. Sau đó cụ được thăng chức Lễ bộ Thượng thư và được đánh giá là có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng vị vua này. Việc dạy học cho vua là một trọng trách rất lớn, chứa đựng cả một sự ký thác của cả triều đình. Không những dạy chữ Hán cho vua mà còn dạy về truyền thống yêu nước, thương dân, ý chí kiên cường để cứu nước,…Vua Duy Tân rất yêu quý và kính trọng thầy.
Vì sao vua chọn thầy dạy cho mình là Cụ Mai Khắc Đôn?
Trong lúc trong phủ phụ chính có nhiều người học vị tiến sĩ còn cao hơn học vị của cụ lúc bấy giờ (cô Mai Thị Trà kể). Lúc trước cụ Mai Khắc Đôn làm quan tuần phủ tỉnh Khánh Hòa (vị quan đầu tỉnh), theo lệ lúc này tỉnh nào lớn như Đà Nẵng, Nghệ An,…thì có quan Tổng đốc đứng đầu, có hai vị phó là: quan bố chánh (quan võ) còn một vị phó nữa là quan án sát (quan văn). Còn các tỉnh nhỏ như Khánh Hòa, Quảng Nam, Quảng Trị, thì chỉ có một vị quan đứng đầu tỉnh là quan tuần vũ và thêm một vị phó nữa gọi là án sát). Sau đó cụ Mai Khắc Đôn được điều động ra làm quan tuần phủ tỉnh Quảng Trị. Lúc này ở các tỉnh miền Trung nhân dân nổi dậy chống sưu thuế (chỉ trừ Huế là gần triều đình nên họ sợ không nổi dậy, còn Quảng Nam, Quãng Ngãi nhân dân nổi dậy chống đối sưu thuế. Có một ông quan (không tiện nêu tên) lúc bấy giờ dùng vũ lực, đưa quân đến trấn áp nhân dân. Ở tỉnh Quảng Trị lúc đó nhân dân cũng nổi dậy, nhưng khi quan tuần phủ mai Khắc Đôn ra nhận chức thì ông không dùng vũ lực mà chỉ mời người thủ lĩnh nổi dậy đến nói chuyện. Ông phân tích phải trái, có nên nổi dậy hay không? Khi nào thì nên, khi nào thì không nên, có lợi, hại gì,…Như vậy cụ đã khéo léo giải quyết vấn đề một cách thông minh, ôn hòa êm đẹp, chí tình chí lý và sống vì dân, sau đó tình hình êm đẹp, nhân dân đoàn kết, lo chí thú làm ăn và rất kính trọng yêu quý quan tuần vũ Mai Khắc Đôn. Nghe được chuyện này, vua Duy Tân dù lúc đó còn nhỏ nhưng được đặt lên ngay vàng, vua cũng sớm bộc lộ bản lĩnh, thông minh và trọng nhân nghĩa. Ông chọn thầy vì như vậy. Tất nhiên vua còn phải học thêm tiếng Pháp, văn học, lịch sử, triết học,…với các vị quan khác nữa, nhưng theo chị Trà bài học làm người, yêu nước thương dân và khơi gợi chí lớn từ người thầy dạy chữ Hán của mình là cụ Mai Khắc Đôn. Cô Trà kể: có lần hai thầy trò đi biển cửa Tùng, vua Duy Tân nói: “Ngồi trên nước mà không ngăn được nước”. Thầy trả lời: “Buông câu ra đã lỡ phải lần”. Tôi nghĩ rằng ý cụ là động viên tinh thần, của một chí lớn, trước khó khăn như vậy khi đã khởi sự thì cứ bình tĩnh, nghĩ cách và tuần tự tháo gỡ,.. (cô Mai Thị Trà tiếp tục kể) Khi vua chạy trốn cùng với các cộng sự kháng chiến của mình bị Lính Pháp bắt được ở Ngũ Tây. Vua cũng mặc áo dân thường như những người khác, lúc này có lẽ là cụ Thái Phiên và cụ Trần cao Vân. Nghe tin vậy cụ Mai Khắc Đôn tới, khi đi lên đó có qua một cái cầu nhỏ, xe không đi được, nhìn thấy vua Duy Tân bên kia cầu, cụ Mai Khắc Đôn liền bước xuống xe (cụ mặc dù là thầy dạy và là cha vợ nhưng vẫn giữ đạo vua –tôi, liền quỳ xuống hành lễ, thì bên kia vua Duy Tân cũng bái lạy thầy. Khi đó lính Pháp mới biết ai là vua Duy Tân, từ đó đối xử khác, có vẻ nhẹ nhàng hơn. Họ mời ngài lên xe và chở đi.
Cuộc gặp gỡ và gắn bó của vua Duy Tân với người thầy dạy học của mình là cụ Mai Khắc Đôn, ngoài đức độ và tài năng, có lẽ còn có một mối nhân duyên trời định, sau này ngoài quan hệ vua tôi, thầy trò còn có quan hệ gắn bó hơn nữa.
Khi lên 16 tuổi hai người mẹ vua là bà Nguyễn Thị Định thứ phi của vua Thành Thái, (gọi là bà Sanh). Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh chính thất của vua Thành Thái, vua Duy Tân gọi là mẹ đích. Hai mẹ và các quan thúc hối việc nạp phi để có người nối dõi thì vua đã chọn tiểu thư Mai Thị Vàng. Mặc dù trước đó, vua thường hay hỏi thầy là: “Thầy có con gái lớn không?” Thầy bảo: “Con thần đều còn nhỏ dại cả”. Ý là cụ không muốn gả vì biết làm vợ vua sẽ khổ. Vua nói: “Thầy yên tâm! Thầy gả em Vàng cho con, con sẽ yêu quý em để đền ơn thầy dạy bảo.” Vua muốn đền ơn giáo dục của thầy Mai Khắc Đôn vì đã dạy cho ông những điều mà không một đại thần nào dưới sự điều khiển của Pháp dám dạy.
Thường ngày thì tiểu thư Mai Thị Vàng và các anh chị em ở Kim Long với mẹ. Còn Quan thượng thư ở lục bộ (sáu ngôi nhà dành cho sáu vị quan đầu triều ở trong thành) một hôm Tiểu thư Mai Thị Vàng về phủ lục bộ chơi. Đang chơi ở sân các chị em, tình cờ vua Duy Tân cùng ngồi xe song mã với thầy Mai Khắc Đôn ghé qua. Vua hỏi: “Đây có phải là con gái lớn của thầy không? Vậy mà thầy cứ giấu tôi”. Thế là từ đó vua đem lòng yêu mến.
Những giai thoại về việc lấy vợ của vua: Khi nghe triều đình chuẩn bị nạp phi cho vua các quan đại thần và các mệnh phụ đều muốn con gái mình có cơ hội làm vợ vua, nhưng vua nói với hai người mẹ là “con có người yêu rồi!”. Hỏi người yêu đâu? Thì vua bảo: mời mẹ ra biển cửa Tùng. Thế là đoàn đi biển cửa Tùng, qua 4 ngày rồi, không thấy bóng hồng nào. Mà chỉ thấy ngày nào vua cũng ngồi vốc cát lên chơi. Hỏi thì vua bảo: “Đãi cát tìm vàng. Nếu mẹ không thấy thì ngày MAI vô Huế sẽ thấy”. Người mẹ đích mới hiểu và nói với mẹ đẻ vua rằng: Vậy là vua đã chọn ý trung nhân họ Mai: Tiểu thư Mai Thị Vàng (con quan Thượng thư Bộ Lễ)
Cuối năm 1915, lễ hỏi giữa Hoàng đế Duy Tân và Mai Thị Vàng được cử hành, ngày 12 tháng chạp năm Ất Mão tức ngày 16 tháng 1 năm 1916, lễ nạp phi được tổ chức trọng thể ở bộ Lễ. Bà Mai Thị Vàng năm đó 17 tuổi được phong làm Đệ nhất Giai phi của Duy Tân. Theo lệ cũ từ thời vua Minh Mạng nhà vua không lập Hoàng hậu. Danh hiệu Đệ nhất giai phi là cao quý lúc bấy giờ.
Bà Phi họ Mai đẹp, thanh thoát, dịu dàng, đặc biệt đôi mắt rất đẹp. Bà được vua Duy Tân sủng ái, thường cho ngồi ăn chung. Vua còn so đũa, đưa muỗng cho vợ, nói chuyện thân mật cùng nhau bên mâm cơm. Đây là điều trái với điển lệ triều Nguyễn, vốn quy định các bà phi không được ngồi cùng mâm với Hoàng đế. Hai bà mẹ gọi vua lên quở trách. Nhưng vua bảo: Mẹ bảo con ngủ với vợ, sao lại không được ăn chung với vợ để trò chuyện tâm tình,..”. Từ đó về sau không ai nói về việc này nữa.
Cuối năm 1916, Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp không thành nên bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, một thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ Dương. Đức vua Duy Tân đi đày qua Reunion với vua Thành Thái, Thân mẫu Nguyễn Thị Định (gọi là Ngài Sanh) cùng bà Phi Mai Thị Vàng và công nữ Lương Nhàn, lúc đó 12 tuổi (tên thường gọi ở nhà là mệ Cưỡi- em ruột vua Duy Tân). Lúc theo chồng lên đường, bà Hoàng Phi đã có thai 3 tháng nhưng bị sẩy thai.
Sau hai năm ở đảo Réunion, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn. Bà cùng mẹ chồng là bà Định cùng em ông trở về Huế. Lúc này bà mới 19 tuổi.
Theo Wekimedia: Nói về cuộc sống ở đảo Réunion, bà Mai Diệu Phi từng chia sẻ: “Ở đảo Réunion rất dễ chịu. Người dân toàn làm một nghề chài lưới. Họ vui vẻ lắm, mua bán cũng tử tế. Nhưng tôi không biết làm sao, ở đó phong thổ tuy tốt nhưng mà hình như sức khoẻ tôi không hợp, nên hay đau. Vì thế, tôi xin Ngài cho tôi về… Ngài còn cho phép tôi tự ý đi bước nữa… Con nhà nề nếp như tôi dầu thế nào cũng phải giữ danh giá. Vẫn biết tuổi trẻ chưa dám chắc ở mình, nhưng bây giờ có nói đến việc gì cũng là khó. Thôi thì tôi tưởng chỉ có hy sinh cái đời tôi cho Ngài cho trọn”.
Nhưng theo cô Mai Thị Trà (cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn, gọi Hoàng Phi Mai Thị Vàng bằng cô ruột là: không phải bà Hoàng Phi tự ý xin vua về mà do vua phái vợ về để phụng dưỡng mẹ và chăm sóc em trai. Tại đảo ngài Sanh có thai và sinh Hoàng Tử Vĩnh Hòe. (hồi đó đi bằng đường biển, lênh đênh hàng tháng trời, vất vả). Như vậy nguồn Wekimedia có những chi tiết cũng chưa thật sự chính xác. Do ở đảo khí hậu, thổ nhưỡng không hợp, bà sanh lại vừa sinh con nhỏ là Hoàng Tử Vĩnh Hòe- (ở nhà thường gọi là Mệ Hên) nên Vua Duy Tân đã cho bà phi Mai Thị Vàng cùng về để hầu mẹ chồng và phụ chăm sóc em trai (khi đó mới 1-2 tuổi).
Chị Công Tôn nữ Như Thanh (con gái của Hoàng tử Vĩnh Hòe) kể: “Năm 1916 Đức vua Duy Tân cùng vua cha Thành Thái bị đày thì người em ruột cùng mẹ với Ngài đi theo là em gái, công chúa Lương Nhàn, tên thường gọi ở nhà là Mệ Cưỡi. Ba của mình là là hoàng tử thứ 19 của Đức Ông nội Thành Thái, em trai ruột cùng mẹ duy nhất của vua Duy Tân, hoàng tử Vĩnh Hoè thì đến năm 1919 mới được bà nội Nguyễn thị Định, tài phi của Đức vua Thành Thái sinh ra ở đảo Réunion. Mình may mắn được ở chung nhà với bà nội và bác gái ờ ngôi nhà đó nên mình biết khoảng thời gian cuối đời hai bà sống vọng phu cô đơn lặng lẽ, bởi vì ba người con của bà nội đều mất sớm, bác gái thì không có con. Đức Bác Duy Tân mất năm 1945, ba của mình là con trai út của bà thì mất 1953, Đức Cô công chúa Lương Nhàn mất 1956. Bà nội, tài phi của Đức Ông Thành Thái mất 1971. Bác gái Mai thị Vàng mất 1980.”
Cô Trà kể: “năm 1945, Pháp đồng ý cho vua Duy Tân trở về nước. Nhưng đồng thời sau đó ông mất vì tai nạn máy bay năm 1945, cái chết của vua Duy Tân vẫn còn là một bí ẩn”.
Vì vậy khi nghiên cứu về các nhân vật lịch sử chúng ta sẽ tra cứu nhiều nguồn thông tin, đặc biệt dựa vào nguồn thông tin của hậu duệ, bà con trong thân tộc và người hiểu rõ về nhân vật lịch sử để có độ xác tín cao nhất có thể.
Khi thực hiện bài này thì tôi được gặp được một số hậu duệ của cụ Mai Khắc Đôn Và sau khi bài viết đăng trên facebook thì cô Mai Thị Trà và chị Công tôn nữ Như Thanh cho biết thêm một một vài chi tiết như đà nói ở trên.
Cô Mai Thị Trà cho biết thêm:
Thời gian mới về, không có nhà ở nên bà Nguyễn Thị Định (bà sanh của vua Duy Tân) và Hoàng Phi Mai Thị Vàng cùng em chồng ở gần bà con bên bà Sanh ở Long Thọ, gần khu vực Hổ Quyền, sau đó ổn định rồi mới thuê nhà khác để ở chuyển đi một vài nơi nữa. Chi tiết cấp nhà sau đây là do cô Yến kể và cô Trà cũng xác nhận là đúng như thế: Sau một thời gian về nước, thấy các bà mẹ vua và vợ vua không có nhà ở chính quyền miền Nam lúc đó cấp cho bà Sanh và bà Phi căn nhà (căn nhà có 3 phòng) ở kiệt 1 đường Âm Hồn, sau đó đổi thành đường Nguyễn Hiệu (sau 1975 đổi tên đường Lê Thánh Tôn cho đến nay). Bà Phi rất hiếu để, hằng ngày chăm sóc mẹ chồng và em chồng. Khi em trai của chồng (hoàng Tử Vĩnh Hòe) trưởng thành vô Saigon học hành và lập nghiệp. Năm 1971 mẹ chồng mất. Lúc này bà Hoàng Phi đã 72 tuổi, bà xin hồi tôn về lại Kim Long sống cuộc đời còn lại ở phủ của cha mẹ ruột.
Theo chị Yến thì lúc về Huế bà vẫn được nhận hưu bổng, Ngài tòa Khâm Pháp rất mê bà: Nói với bà là: “Bà lấy vua không sướng bằng tôi đâu, nếu bà đồng ý làm vợ tôi, tôi sẽ đưa bà đi khắp thế giới”
Nhưng bà từ chối. Bà nói: “Xin lỗi ông, đời tôi chỉ có vua là chồng, vua là thiên tử, không ai có thể hơn vua”
Mỗi lần đến kỳ lãnh lương, ông tòa khâm lại sai người cho xe đến tận nơi rước bà về và mời vào phòng làm việc tiếp đãi, rồi cho xe chở về, bà biết giữ mình nên khi nào bà cũng đi cùng người anh trai của bà để tránh sự thân mật của khâm sứ Pháp. Đúng tinh thần như câu Kiều:
“Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”
Theo lời kể hậu duệ của gia tộc Hoàng Phi và tham khảo ở nguồn Wikimedia,
Tôi xin tóm tắt các mốc thời gian quan trọng của Hoàng Phi:
Đệ nhất Giai Phi nguyên danh Mai Thị Vàng sinh năm 1899, tại thôn Kim Long, Huế, năm 1915 đám hỏi, đám cưới ngày 16/1/1916, tức là đầu năm 17 tuổi đám cưới. Cuối năm 17 tuổi phải theo chồng đi đày, 19 tuổi trở về Huế. Khi ở đảo Réunion, Duy Tân vẫn thường gửi thư về cho bà. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng hoàng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Diệu phi, xin Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Khi đó, bà mới 27 tuổi nhưng bà không ly hôn mà vẫn ở vậy nuôi mẹ và em chồng. Cô Trà còn cho biết là vua Duy Tân rất thương nhớ bà Phi Mai Thị Vàng. Vua có làm một bài thơ nói lên tâm sự của mình đăng lên báo bên Pháp và ông Trần Viết Ngạc (em của người bạn thân của cô Trà) sang bên đó đọc được, và còn đọc thêm một số tài liệu liên qua đến vua Duy Tân và bà Hoàng Phi Mai Thị Vàng bằng tiếng Pháp.
Cụ Mai Khắc Đôn đức cao vọng trọng nhưng cụ sống giản dị, thanh liêm. Cụ là một nhà nho yêu nước, một vị quan thương dân và là một người thầy đáng kính của vua Duy Tân. Sau 8 năm học với thầy Mai Khắc Đôn, Vua Duy Tân trưởng thành, trở thành vị vua yêu nước và đứng lên chống Pháp. Tư tưởng của vua có ảnh hưởng tốt từ tư tưởng của thầy dạy và là nhạc phụ Mai Khắc Đôn. Con cháu cụ kể lại là lúc làm quan, về nhà ông còn dạy học cho học trò trong địa phương, làng Trúc Lâm không biết lấy gì để đền ơn cụ nên đã hiến một sào ruộng làm nơi an nghỉ cho cụ. Trải qua làm quan hai triều vua Thành Thái và vua Duy Tân, cụ đã để lại những dấu ấn tốt đẹp. Năm 1930 cụ an nghỉ, mộ cụ được xây giữa một cánh đồng lúa xanh rờn, khung cảnh yên bình, như tính cách và cuộc sống sinh thời cụ đã gần dân, yêu thương dân như thế!
Hoàng Phi Mai Thị Vàng là ý trung nhân vua đã chọn: xinh đẹp, hiền thục, chung thủy và hiếu để. Bà xuất thân quyền quý, bước lên danh vọng đỉnh cao là đệ nhất Hoàng Phi nhưng lại sống giản dị. Là người có tấm lòng trung trinh, thủ tiết với chồng cho đến khi qua đời (1980) tại Kim Long.
Cuộc đời cụ Mai Khắc Đôn là tấm gương về tài năng, đức độ, yêu nước và thương dân, từ những tư tưởng tốt đẹp và kiến thức uyên bác của mình đã truyền dạy, đào tạo một vị vua trẻ tuổi thành vị vua yêu nước thì cuộc đời Hoàng phi con gái cụ là một người phụ nữ Huế tiêu biểu cho nhan sắc và đức hạnh. Nếu vua không bị đi đày thì cuộc đời bà là hạnh phúc viên mãn bên vua và sẽ là một mẫu nghi chuẩn mực trong triều lúc bấy giờ.
Thời gian ở đảo như đã nói ở trên bà thường đau ốm do không hợp thổ nhưỡng, khí hậu, sợ bà có bề gì, trước đó cũng vì vất vả nên bị sảy thai, vua để bảo toàn sức khỏe cho vợ, mẹ và em trai, đã cho Hoàng Phi cùng mẹ là bà Định và em trai về Việt Nam sinh sống.
Sau này, vua cũng có con với 3 người phụ nữ châu Âu. (Chị Như Thanh kể) “Đức Bác Duy Tân hồi còn ở đảo Réunion, Ngài có 3 người vợ không chính thức và có 6 người con. Bà thứ nhất có 1 con trai, Bà thứ 2 có 3 trai 1 con gái, Bà cuối cùng có 1 gái”. Các Hoàng Tử có trở về thăm quê cha. Năm 1987, họ đưa thi hài của vua Duy Tân từ Pháp về Huế an táng tại An Lăng (Huế). Các con vua Duy Tân cũng thường được nghe cha kể về Hoàng Phi Mai Thị Vàng (cũng xem như mẹ đích vì bà Phi vẫn là vợ vua hợp pháp), các con của vua Duy Tân cũng yêu quý và kính trọng bà Hoàng Phi nên dù lúc mất 1980, Hoàng Phi an nghỉ tại Kim Long, nhưng sau này các hoàng tử về xin đưa Mộ phần bà Hoàng Phi Mai Thị Vàng về cải táng tại An Lăng, gần mộ vua Duy Tân. (Năm 1994).
Bà Nguyễn Thị Định mất năm 1971 tại Huế, được táng trong khuôn viên lăng Dục Đức cùng với vua Thành Thái và Duy Tân. Bà Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh cũng được táng tại đây.
Mời bạn đọc xem 2 video người viết bài có một cuộc phỏng vấn nhỏ với Chị Mai Thị Thanh Xuân (cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn), chị Trần Thị Yến Tuyết (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn) một số hình ảnh thăm phủ đệ, gặp gỡ bà Mai (cháu dâu) và chị Mai Thị Nhàn, chắt nội của cụ Mai Khắc Đôn). Xem một số hình ảnh của Công Tôn nữ Như Thanh cung cấp, (con gái của Hoàng Tử Vĩnh Hòe- Hoàng tử thứ 19 của vua Thành Thái) hiện sống tại Canada. Chị Như Thanh đã về dự Huý Nhật ba vua Dục Đức Thành Thái Duy Tân tại An lăng ngày 16/2/Ất tỵ (5/3/2025).
Saigon, ngày 15/10/2025
Hoàng Thị Bích Hà
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Mai Thị Thanh Xuân
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Trần Thị Yến Tuyết