
Tập Chúng ta đang trôi đi đâu?! không quay về một thơ Bùi Chát quen tay, mà mở một xưởng chữ, nơi mọi vật liệu đời sống – từ heo với lợn, miệng với lời, mặt với lỗ – bị tháo rời, đánh số, ráp lại theo sơ đồ không cho sẵn. Đọc như đi qua một bãi lắp ghép, mảnh nào cũng bén, chạm vào là rướm máu, nhưng bén theo kiểu dụng cụ – để dùng, không để trang trí.
Ngay bài tiểu luận dạo đầu Heo, lợn & thơ, tác giả đặt ngôn ngữ lên bàn cân quyền lực. Hai tên gọi một loài vật trở thành hai trục ý thức, “nhà Lợn” nhất thống, “nhà Heo” di tản. Cách anh kể không dựng cờ phe phái; anh để chữ tự kể, mỗi từ là một mẩu lịch sử di dân, là một tờ lệnh điều động ký ức. Từ đó, anh tuyên bố nghề, nhà thơ là kẻ dựng một tháp Babel riêng rồi tự tay phá nó mỗi lần đọc. Hành vi dựng–phá ấy không phải lập dị; nó là kỷ luật. Một nền thơ chỉ sống khi mỗi bài là một tai nạn kiến trúc có chủ đích.
Tinh thần thao tác – hơn là xưng tụng – chạy xuyên suốt tập. “Ba mặt không lời” đưa tình yêu ra khỏi vườn tượng mộng mơ, đặt vào vùng nguy hiểm của ngôn ngữ: “khoảng cách không đủ an toàn / cho sự tồn tại thiết thực / của ngôn ngữ.” Không an toàn cho chữ, tức không an toàn cho cảm xúc được viết ra. Tình yêu ở đây không phải nơi trú ẩn mà là bãi thử chịu lực: chữ chịu nổi thì tình còn, chữ gãy thì tình rơi. Chú thích cho một cuộc đi đẩy tiếp, chia tay như rút quân, còn kẻ ở lại là sa lầy. Sa lầy – một hình ảnh vật chất, bẩn và nặng – thay thế mọi mỹ từ lãng mạn. Ở Bùi Chát, cảm xúc không được thăng hoa; nó bị thăng hoa, nếu ngôn ngữ đủ lực nâng.
Cao trào về nghề là Nói với nhà thơ về thơ, giữa chữ đầu tiên và dấu chấm hết là “một khoảng trống rỗng chiếm đoạt đời người”. Câu này chôn hẳn ảo tưởng viết là trút bầu tâm sự. Viết ở đây là cho chữ ăn thịt thời gian sống. Khi thơ sinh ra, nhà thơ mất hút, bản ngã rút lui, tác phẩm đứng một mình. Thơ vì vậy không còn là bình phong cho cái tôi; nó là bản ghi thao tác của một cuộc chuyển hóa: thời gian → câu.
Cùng lúc, tập thơ cắm nhiều cọc mốc trong vùng đạo đức và công dân. Bài Im lặng(không trích ở đây nhưng tinh thần hiện rõ) ném một viên đá vào thói quen khuyên nhau nhẫn nhịn, im lặng trước cái ác chỉ là vàng giả – dễ gây ô nhiễm. Cái giọng hướng dẫn sử dụng lương tri này không rao giảng; nó là nhãn cảnh báo dán ngoài bình hóa chất, đọc xong khó cãi. Một hướng thì tối giản hết mực, hai nhà thơ yêu hai đất nước, gặp nhau ở mất mát, không ở vinh quang. Câu “chuyển lặng im thành im lặng” nghe như một trò đảo chữ, nhưng là một phép danh từ hóa sự câm nín, chỉ khi biến im lặng thành đối tượng, ta mới nhìn thẳng được nó.
Tập thơ còn phóng tia sang địa hạt thiêng: Cầu nguyện, xin đừng bắt phải yêu kẻ thù; giọng nói nửa cầu xin, nửa cãi lý. Nếu truyền thống đạo đức khoác áo siêu hình, ở đây Bùi Chát trút áo ấy, mặc lại chiếc áo đời thường của giới hạn cá nhân: “con chỉ có thể yêu cựu thù”. Không có mỹ học khoan dung đóng hộp; có một tình huống cụ thể, nơi lòng tốt có biên, đạo đức là năng lực có hạn.
Tiến thêm một nhát dao, Bùi Chát dùng thân thể – với tất cả tục và thô – để kéo ngôn ngữ khỏi lễ đài. Mặt; Lời – lỗ; Miệng: toàn các bài tháo chữ khỏi lăng kính trang nghiêm. “Khởi thủy là lời” bị đảo: có khi khởi thủy là lỗ. Tục ngữ bị bẻ, kinh điển bị lật. Không phải để sốc; để trả chữ về đúng nơi sản xuất: miệng – nơi âm thanh nhầy nhụa, nước bọt, hơi thở, cổ họng. Đem chữ về thân xác là cách đuổi vẻ đẹp lễ nghi ra ngoài: “Sống – lấy lỗ làm lời / Thơ – lấy lời làm lỗ” – một nghịch đảo kế toán rất… thơ.
Mạch triết học của tập thơ không đến từ hệ thống mà từ thao tác hoán vị. Cốt lõi viết: “Không phải cảm xúc / mà chính là ngôn ngữ / sinh ra thơ / sinh ra tư tưởng / sinh ra ngôn ngữ / và sinh ra cảm xúc thơ.” Cấu trúc vòng – ngôn ngữ → thơ → tư tưởng → ngôn ngữ – nghe như luận đề khô, nhưng dùng nó để đọc những bài khác, ta thấy một quy luật vận hành: cảm xúc tới sau như phụ phẩm của thao tác chữ. Trong một thời đại cảm xúc bị công nghiệp hóa, cử chỉ lạnh này của Bùi Chát lành mạnh, rút phích cắm duy cảm, trả nhà máy thơ về đúng dây chuyền.

Ở cực kia, bài Vận mệnh trượt sang siêu thực: “đi đủ lâu, đủ xa” thì tới… quá khứ. Thời gian biến thành địa điểm, lịch sử thành tuyến xe buýt vòng. Lối đảo trục ấy khiến công thức “đời là bể khổ” nhạt nhòa; cái còn lại là cơ chế lặp: mọi nỗi đau bắt đầu lại khi ta chạm lại điểm khởi – cá nhân hay cộng đồng, khác nhau về quy mô, giống nhau về logic. Bên cạnh đó, Hiện hữu phác chân dung bản ngã đa diện – nhiều mặt đeo bám – và sự trốn chạy vào “em”, rốt cuộc cũng chỉ là “ngày đang tới”: một điểm trì hoãn, không phải cứu chuộc. Bùi Chát không thuyết giảng hiện sinh; anh đưa bảng chỉ đường: đời là trì hoãn có ý thức.
Những đoạn điện tín ở phần Những ý nghĩ trở lại là sổ tay của người thợ chữ. Ở đó, ta gặp đủ mọi quãng giọng: châm biếm (“Sướng và tự sướng là hai mặt của một cái mẹt”), tự chỉ trích (“Tôi vẫn không chịu đựng nổi chính tôi”), nghề nghiệp (“Thơ là thơ nhưng không phải là thơ vì thơ đã là thơ”), và những câu lạnh như lưỡi dao: “Đọc vạn cuốn sách cũng chẳng ích gì nếu bạn không thể đọc được chính mình.” Chúng không phải tuyên ngôn treo tường; chúng là ốc siết lực cho cái máy vận hành tập thơ. Nhờ chúng, những bài như Đuối – nơi tác giả đùa về “thơ tháo từ bài khác ra” – không biến thành mỹ học ăn cắp, mà trở về đúng bản chất hậu sản xuất: mọi văn bản đều sống lại bằng tái lắp ghép.
Điểm thú vị khác là ý thức nghề kép của Bùi Chát, nhà thơ kiêm họa sĩ. Dãy đoản ngôn về hội họa rải rác (đẹp không phải đích, khéo tay không thiết yếu, tư duy là vật liệu) không chen vai sát cánh với thơ; chúng tạo bối cảnh để hiểu vì sao bài thơ của anh mỏng chữ dày thao tác. Khi anh bảo: “Làm thơ là làm ngôn ngữ. Làm hội họa tôi chọn làm màu”, ta thấy một song trục thống nhất, cả chữ lẫn màu đều là xử lý, không phải trang hoàng. Vì vậy, bài Thơ… là mây trắng… – một xâu chuỗi nhại phát biểu – không để giễu thiên hạ mà để xả áp, tước quyền cát cứ khái niệm, trả thơ về thứ khí tượng khó đo, khó sở hữu.
Một mạch khác là môi trường. “Trái đất đang vùng vẫy / trong một nấm mồ rác” – câu thơ này khiến các diễn văn xanh lè trở nên vô duyên. Không tuyên truyền, không rao giảng, chỉ một hình ảnh đúng chỗ, đủ nặng, đủ ám: nấm mồ bằng nhựa – văn bản rác chồng lên nhau – chôn sống cả hành tinh. Đọc rồi ngẫm lại thói quen chữ nghĩa của chính mình: mỗi status vô nghĩa, mỗi câu sáo rỗng… cũng là một nhúm nhựa ném xuống lỗ.
Về giọng, Bùi Chát đã đi một vòng lớn từ Mở Miệng đến nay, vẫn còn tiếng chửi (anh tự nhắc để khỏi ai quên), vẫn còn trò bậy (bậy có nghề), nhưng đã thêm tiết chế. Tiết chế không phải hiền; nó là biết đặt lực đúng thớ. Nhờ vậy, những cú tục nơi “Mặt”, “Lời – lỗ” không lấn át hệ mạch tư tưởng; ngược lại, chúng tiếp đất cho các trục siêu hình không bay khỏi bầu khí quyển.
Cũng cần nói về hài trong tập không phải hài để cười; là hài để chọc thủng nghiêm trang. “Nước mắm chay làm từ cá… chay” là một loại hài lý thuyết, mọi khái niệm khi bị đẩy quá trớn đều lộ sự phi lý tự thân. Loại hài này cứu thơ khỏi đạo đức luận sụt sịt và mỹ cảm ướt át. Nó là chế độ tự kiểm của tác phẩm: mỗi lần mạch “cao cả” nổi lên, lập tức một cú nghiêng mồm đổ nước lạnh.
Chọn nhan đề Chúng ta đang trôi đi đâu?!, Bùi Chát không đặt câu hỏi để chờ đáp án. Anh đặt chúng ta vào trạng thái trôi. Trôi giữa biến đổi ngôn ngữ, giữa mất mát chính trị, giữa rác thải thông tin, giữa những mặt nạ cá nhân; trôi trong các “quy hoạch treo” đời sống – nơi khẩu hiệu được in đậm hơn chính sách. Anh không dạy cách bơi; anh phát dụng cụ định vị, la bàn ngôn ngữ, thước khoảng cách, máy đo im lặng, bản đồ mất mát. Những dụng cụ ấy không cứu khỏi dòng, nhưng giúp ta biết mình đang bị lôi về đâu.
Nếu cần một câu để chốt mỹ học của tập thơ, tôi chọn: thơ như thao tác chính xác trên một chất liệu bừa bộn. Chính xác – chứ không mỹ lệ – nói như Nguyễn Đức Tùng, là phẩm chất số một mà tập này đòi hỏi ở cả người viết lẫn người đọc. Thứ chính xác ấy không đến từ điển hình hóa hay khái quát rầm rộ; nó đến từ tỉa đúng chữ, đặt đúng chỗ, đảo đúng trục. Khi “khởi thủy là lời” bị lật thành “khởi thủy là lỗ”, khi “im lặng” được danh từ hóa, khi quá khứ bị địa điểm hóa, khi cảm xúc bị đẩy ra sau ngôn ngữ, đó là lúc thơ làm việc, không phải làm dáng.
Một tập thơ quay lưng với an ủi nhưng mở cửa cho dũng cảm. Không phải thứ dũng cảm lên gân bằng khẩu hiệu, mà là dũng cảm tháo chữ, đảo trục, nhìn thẳng. Trong thời đại tiếng ồn, phẩm chất ấy hiếm như một hơi oxy sạch. Và nhan đề Chúng ta đang trôi đi đâu?! không phải để chờ câu trả lời. Nó ép ta vào tư thế của kẻ đang trôi, giữa dòng hỗn độn. Câu hỏi “đi đâu” chỉ vô ích nếu ta còn tưởng có bến.
Chúng ta đang trôi đi đâu?! không phải là một tập thơ để đọc cho vui, cũng không phải để nhấm nháp vài câu đẹp. Nó là một thao tác phẫu thuật ngôn ngữ, nơi từng chữ được mổ ra, ráp lại, và buộc người đọc phải đối diện với sự chính xác lạnh lùng. Trong bối cảnh thơ Việt còn nhiều xu hướng sa vào cảm tính hoặc mỹ cảm trang trí, tập thơ này đứng riêng: khước từ an ủi, khước từ kể lể, chỉ giữ lại kỷ luật thao tác và phẩm chất dũng cảm. Đó là lý do Chúng ta đang trôi đi đâu?! không chỉ là một cột mốc mới của Bùi Chát, mà còn là một trong những minh chứng hiếm hoi rằng thơ Việt đương đại vẫn còn có thể tạo ra cú chấn động thực sự.
Lương Lưu
___________________
Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Tập thơ thứ tám của Bùi Chát, Nxb Đà Nẵng 2025.