Ngô Nguyên Dũng: Bình Minh Da Trắng (*)

Tác giả: Ngô Nguyên Dũng
Hình minh họa: AI

Lời tác giả:

Tất cả những nhân vật cũng như tình tiết trong tiểu thuyết “Núi Đoạn Sông Lìa” đều được tôi hư cấu mang tính cách ẩn dụ.

Trong trích đoạn lần nầy, tôi viết về nhân vật chú Năm Tự, người làm vườn và giúp việc đồng áng cho ba má của những nhân vật Châu, Cẩm, Chung, Chúc, … thuở chú làm công cho ông bà Dupont, được dân bản địa gọi tắt là ông bà Bông, vợ chồng người Pháp lưu lạc về đồng bằng sông Cửu Long lập nghiệp và truyền bá đức tin Ky-tô giáo cho người An-nam.

Trân trọng,

Ngô Nguyên Dũng

*

Không biết ông Bông có kể lại cho vợ biết chuyện xung đột bữa trước? Chắc không, vì chú Năm Tự không nghe bà Bông hỏi han chi. Chú Năm rót trà sen vô tách cho bà chủ, đứng khoanh tay lần chần chờ sai biểu. Lũ chim báo nước lớn thong thả tràng dài ngoài sông ruộng đỏ rực ráng chiều. Phong thổ nơi đây, lành nhiều dữ ít, vậy mà chẳng hiểu sao chú Năm Tự không ngớt có cảm giác đa mang nặng nề những biến động dai dẳng. Trước đó, vì miếng cơm manh áo, chú ít khi lo nghĩ tới mấy chuyện khó hiểu nầy. Nay, cuộc sống coi như tạm ổn, thêm vô đó là những điều tai nghe mắt thấy thường bữa bên cạnh ông bà Bông, đã khiến chú tư lự thường hơn trước. Bản tính chú ham tìm hiểu. Chú thật lòng muốn biết nhiều chuyện về căn cơ giống người da trắng. Xứ sở họ là chỗ nào trên tấm địa đồ? Cớ sự nào xui khiến họ tới đây? Còn đức tin ở một đấng toàn năng tạo dựng trái đất và muôn loài, giả chân là đâu? Tuy nhiên, điều trái ngược ở thái độ của ông Bông bắt chú Năm Tự không ngớt thắc mắc. Ông trong những buổi tế lễ sáng chủ nhật và ông trong những lần đi săn vịt hay trong cơn dậc lạc thể xác như thể hai người khác nhau.

– Tôi nghe mơ-xừ nói lại, chú làm việc siêng năng, giỏi giắn, biết chịu khó. Mơ-xừ bằng lòng lắm.

Bà Bông cất giọng thủng thỉnh. Chú Năm Tự mát dạ, nhỏ lời cám ơn bằng tiếng Tây học lóm của bà Bảy. Bà già vô học, nhưng nhạy thính, nói được quọt quẹt một mớ chữ Tây thông dụng. Bà hãnh diện lắm, có dịp là lên mặt chỉ dạy chú Năm mấy câu giao tiếp thường ngày.

Chợt bà Bông bật tiếng cười khan:

– Mơ-xừ còn nói, chú biết đấm bóp giỏi.

Chú Năm Tự thấy nóng bừng gò má. Chú nhích chân vô bóng chiều đổ dài ba phần tư gian thuỷ toạ, có cảm tưởng như bà chủ bắt được rành mạch từng chuỗi suy tư trong đầu chú.

Chú Năm lúng búng lừa chữ:

– Tui … tui … học lóm, thưa ma-đàm.

Bà Bông nói mau:

– Có dịp chú xoa bóp cho tôi giãn gân cốt.

Chú Năm Tự “dạ, dạ” cầm chừng. Lúc chú bưng dọn khay trà bánh vô bếp, ngạc nhiên thấy bà Bảy đang ngồi khom lưng bên mớ hoả lò bập bùng ánh lửa. Chú tở mở hỏi dồn:

– Ủa, bà Bảy! Bà hết bệnh rồi sao?

Bà Bảy nghiêng mặt, cười xệu xạo:

– Đỡ nhiều rồi chú Năm à! Tui nhóm lửa sửa soạn cơm chiều cho bà chủ.

Chú Năm xăng xái:

– Bà để đó tui làm cho, bà vô buồng nằm nghỉ đi!

– Nằm nhiều quá, dám nằm luôn, chú à! Tui cần cử động cho máu huyết điều hoà.

Nghe xuôi tai, chú Năm Tự làm thinh, vừa dọn dẹp vừa ngân nga mấy câu Tứ đại oán buồn hiu. Hoàng hôn lặng lẽ nhả bóng tối. Chú Năm vấn điếu thuốc, rứt cọng rơm rế nồi tới hoả lò châm lửa. Chú ra đứng cửa sau, chầm chậm thưởng thức điếu thuốc cuối ngày, tia mắt chểnh mảng ngoảnh lên vòm trời đỏ chạch máu lựu. Chim chiều từng bầy nối cánh lướt ngang, rớt tiếng chập choạng, khàn khạc trỏm trơ. Trăm lần như một, quang cảnh chiều tà bắt chú bầm ruột tím gan, bất kể mùa mưa hay mùa nắng. Cớ gì vậy? Chú bao phen tự hỏi, và xốn xang nhận ra những nợ nần chú vay mượn từ đời thuở nào, kiếp nầy chưa trả được. Nợ ruột thịt tình thâm đã đành, chú còn gánh thêm nợ núi, nợ sông, nợ ông Thiên bà Thuỷ, nợ từng cọng rau hột lúa quê nghèo đã cưu mang chú bấy lâu. Còn những người da trắng kia, chú đâu vay mượn gì của họ, mắc mớ gì chú phải trả bằng thân phận tôi đòi?

Có tiếng bà Bảy hít mũi rột rẹt:

– Than mua đợt nầy non chạch, khói quá tay.

Chú Năm búng đầu thuốc rụi lửa, nhổ oạch đốm nước miếng đắng khét xuống đất, trở vô ngồi chèo queo cạnh bà Bảy. Bà giơ tay áo chặm lõm mắt đỏ hoe, cười méo xẹo:

– Hổng hiểu bà chủ cho tui uống thứ thuốc gì mà linh nghiệm như thần.

– Ma-đàm nói bà bị sốt rét.

Bà Bảy ngớ mặt:

– Là bệnh gì vậy? Từ lúc cha sanh mẹ đẻ tới giờ, mới nghe lần đầu.

Chú Năm Tự nhớ lại lời bà Bông:

– Bà chủ nói tại bà bị muỗi rừng chích nên sanh bệnh.

Nét mặt bà Bảy thoáng đăm chiêu. Bà trở giọng trầm ngâm:

– Ờ, ờ … chắc tại mấy bữa tui đi thăm con, ngủ bờ ngủ bụi.

– Ủa, con bà ở đâu mà đi thăm, phải ngủ bờ ngủ bụi?

Bà Bảy run run ghì nhẹ cánh tay chú Năm Tự, thủ thỉ:

– Mà chú không được thèo lẻo cho ai khác nghe à nghen!

Chú Năm ngó không chớp vô mắt bà Bảy, gật đầu.

– Tui nói cho chú nghe rồi, chắc chú quên. Tui có thằng con trai theo Việt minh. Lần về thăm quê bữa trước, tui nhớ nó quá, nên gói ghém chèo xuồng một mình vô rừng trầm thuỷ thăm nó. Chú biết mà, rừng rậm nước đọng, muỗi mòng đàn đúm, rân ran như sáo thổi, đố tránh bị chúng chích. Chắc vậy mà mắc bệnh … Bệnh gì … chú nhắc lại tui nghe lần nữa!

– Bệnh sốt rét.

Bà Bảy thở ra não nuột:

– Gặp con cho thoả dạ nhớ thương, để rồi sau đó tui cứ lo chằm chằm. Thấy nó đen đúa, ăn uống thiếu thốn, ốm nhách, tui thương quá, cứ nắm rịt mà khóc. Vậy mà nó không chịu hiểu, còn lên giọng nhiếc móc tui, làm nghề gì không làm, lại nai lưng ở đợ, làm tay sai cho thực dân …

Nói tới đó, bà Bảy không cầm được xúc cảm, tuôn nước mắt ròng ròng. Rồi bà đổi giọng oán than:

– Tui nói có quỉ thần làm chứng, tui không đi ở đợ cho Tây thì làm sao nó có cá mòi, bưa mặn, cà-phê, sữa hộp, bánh mì mà ăn? Tui không làm mọi cho thực dân, làm sao tui cắc củm dành dụm cho nó xấp tiền mua bịch thuốc rê, xị rượu đế? Chú Năm nó biết hông, tui ghịt tay nó khóc kể miết, vậy mà mặt mày nó tỉnh rụi, làm tui tưởng mình đương nói chuyện với khúc củi, cục đá. Tui rầu hết sức vậy đó.

Chú Năm Tự làm thinh, ngẫm lại thân phận, cũng cùng thân phận ở đợ, tay sai …

– Bữa nó đưa tui xuống ghe ra về, nó mới nhỏ nhẹ khuyên tui, má già rồi, về nhà mấy đứa con gái mà ở, chớ ở nhà ông bà Bông hoài huỷ, coi chừng có ngày mang hoạ. Nó còn nói cái gì … cách mạng với lại tự do, độc lập, … nghe hổng hiểu gì ráo.

Chú Năm bất thần lắc tay bà Bảy, thều thào:

– Bà nói nhỏ thôi, lỡ ma-đàm nghe được, hổng tốt.

Bà Bảy lại thở dài:

– Chú coi đó, ma-đàm với lại mơ-xừ cư xử với tui như chén nước đầy, làm sao tui bỏ đi cho đành … Nói nào ngay, mấy chuyện mà thằng con tui bóng gió gần xa, nghe như cảnh cáo, làm tui suy nghĩ lung lắm. Rồi nghe kể, chỗ nầy Việt minh về đánh đồn Tây, chỗ nọ họ tới nhà cướp giết thực dân, tui càng lo thêm. Liệu tui có nên nói cho ma-đàm biết mà phòng hờ?

– Chớ, chớ! Chắc chưa tới nỗi nào.

Bà Bảy chép miệng:

– Cứ cái điệu nầy, tui lo lắm, chú Năm à!

Thốt nhiên bếp lửa phực lên vài tia sáng xanh loè. Nhúm than đỏ cựa mình rắc rắc, toé đốm lấp loé quanh đáy nồi ám khói đen đủi. Bà Bảy cằn nhằn, than hầm đợt nầy non quá, lần tới chú Năm nhớ nói cho vợ chồng Tám Than biết, đòi bớt tiền, nghen!

*

Như thường lệ, chú Năm Tự thức dậy lúc gà gáy đợt đầu. Chú súc miệng, rửa mặt, lau mình, thay quần áo, rồi qua nhà bếp sửa soạn khăn nước bưng vô buồng cho bà Bông. Hổm rày vắng mặt ông, chú gõ cửa, chờ bà Bông lên tiếng mới bước vô, đặt thau nước, khăn và xà-bông thơm lên trường kỷ kê cuối giường, rồi lui ra.

Sáng nay, chú ngạc nhiên thấy bà Bông đã vấn tóc, vén mùng ngồi ở mép nệm. Chú không dám ngó thẳng mặt người đàn bà, nhép tiếng bông-xua rồi lẳng lặng xếp đặt khăn nước lên trường kỷ. Chuôi mắt chú liếc thấy thấp thoáng bàn chân bà Bông lờ nhờ ngón trắng trên sàn gỗ thếp, nhú ra lai áo ngủ viền đăng-ten hoa lá, dài phủ gót. Áo ngủ, đồ lót và y phục của bà Bông được bà Bảy giặt giũ, phơi kín sào tre mắc dọc ngang vườn sau, mỗi tuần hai lần. Mỗi bận bước ngang, thấy mớ nịt ngực, quần lót may vải mỏng thín viền đăng-ten kiểu tây, lòng dạ chú Năm Tự không khỏi bợn rợn xao động, thèm khát bâng quơ. Chú không dám ngó lâu, sợ tâm sanh tà ý.

Chú Năm Tự cúi đầu, toan lui ra thì bà Bông nhỏ giọng ra lệnh:

– Chú đứng đó! Bữa nay chú làm ơn xoa dầu, đấm lưng cho tôi một lát. Không hiểu sao, nhức mỏi quá chừng!

Mặt mày chú Năm sượng ngắt. Chú chết đứng, trân trân dõi theo từng động tác của bà Bông. Bà thủng thẳng tới trường kỷ, cầm thau nước và dĩa xà-bông đặt qua ghế, xổ khăn lót lên lớp gỗ đánh vẹc-ni láng lẩy. Rồi bà tới mở tủ, lấy ve dầu dúi vô tay chú Năm, thản nhiên tháo gút cổ áo. Sau vài cái lắc mình, thân thể người đàn bà đã lồ lộ trắng muốt. Thị giác chú Năm Tự tê tê ngờ vực. Thịt da chú bừng lên sinh lực trai tân, rần rật. Bà Bông chẳng nói chẳng rằng, sấp lưng nằm xuống trường kỷ, day mặt vô trong. Chờ một lát, không nghe động tĩnh, bà cất tiếng ngạc nhiên:

– Ủa, chú bị sao vậy? Xoa dầu đi chớ!

Chú Năm Tự lật đật nhểu dầu vô lòng tay, xoa xoắn. Hương bông lài bốc ngan ngát. Chú không ưa loại bông nầy, vì nó thoang thoảng cái mùi gắt gay của lá mục. Vậy mà khi được dùng ướp trà, tẩm dầu, bông lài lại man mác hương thơm bình dị, dân dã. Nó khiến chú nhớ tới một góc vườn thơ ấu đã xa, và những khuya rằm mùa ráo, xoay lưng trở giấc, khứu giác chú bắt được mùi thơm lan qua phên cửa hé, lâng lâng nhẹ tênh. Và sắc trắng ma quái những chùm bông thanh tân lẫn tiếng côn trùng, ếch nhái oang oải suốt đêm thâu.

Từ lâu rồi, chú cứ tưởng cõi lòng mình đã chai sạn, lú lẫn. Nhưng không, thứ cảm xúc dị thường đó đột nhiên ngoi dậy bừng bừng ngũ quan chú trong khắc giây nầy, lúc chú xoè lòng tay sằn sõi, trơn lầy lăn dọc sống lưng người đàn bà dị chủng. Cử động chú ban đầu ngượng ngập, dọ dẫm, rồi từ từ thắt lại, se sắt. Hai tròng mắt chú mở hoác, như thể xoi thủng bóng nhá nhem của bình minh đông phương vây bủa. Chú thấy rõ sắc da bà Bông sửng đỏ theo lằn ngón tay mầy miết. Có lúc, như để trấn áp cái đau tươi rói, sảng khoái, người đàn bà oặn lưng theo từng sớ thịt được xoa nắn. Chú Năm Tự tưởng ra mình đang bôi tro vuốt nhớt bầy lươn lịch bầy hầy, oằn oại khát vọng.   

Chợt, người đàn bà ngoặt tay ghịt lấy cổ tay chú Năm Tự, khe họng rên rỉ mớ ngôn ngữ lạ hoắc. Chú Năm còn ngơ ngác, thoắt cái, bà Bông đã lật người nằm ngửa. Đoạn, bà dẫn dắt bàn tay thuộc địa dọ dẫm hai gò ngực thực dân, chầm chậm kéo xuống. Chú Năm Tự trừng trừng hai trõm mắt bốc lửa. Dục cảm chú bất tuân, căng theo vòng lưng khom xuống thân thể trắng hếu bơ sữa, cơn rượn tình bừng lên rậm rựt. Chú mau mắn dạng chân bà Bông, thốc mạnh dương vật vô khe bụng ẩm ướt của con thú da trắng, từng chặp từng chặp. Bà Bông nấc tiếng hoan lạc, viền mặt méo mó như bị quỉ ám. Chú Năm sững mắt, chăm bẳm dõi theo những biến dạng trên gương mặt và thân xác người đàn bà. Khoái cảm chú đọng vũng thành ao tù chật hẹp, lầy lụa thân phận tôi đòi trong thảm cảnh tối sáng ly tán ba miền đất nước. Bà Bông không phải là người phụ nữ An-nam-mít bị cưỡng hiếp trong một trận Tây ruồng. Chú không phải là tên lính lê-dương sùng sục thú tính, bắn giết, hãm hại dân bản xứ không nương tay. Với chú, chỉ là phản xạ của dục vọng đòi hỏi và bản tánh tự mãn của giống đực. Hơn vậy nữa, thân xác chú đang ói mửa thốc tháo những căm phẫn nhược tiểu lên thịt da kẻ thống trị, như thể chuyện hành lạc là cách thức trừng phạt của gã thuộc địa bị áp bức trên chính quê hương mình, sử dụng bộ phận sinh dục làm vũ khí chống trả. Và cũng để nhận thực bản năng của bà chủ da trắng, thì ra cũng tầm thường, yếu đuối của một sinh vật trước cơn bức bách của thể xác.  

Chú Năm Tự tưởng như từng tế bào trong thân thể chú đang vùng dậy phản công. Động tác chú trở nên dồn dập, cuồng bạo. Bà Bông ưỡn lưng hứng lấy, tiếng khoái lạc hổn hển cổ họng. Thoảng dấy trong gian phòng kín cửa là cái mùi nhục dục gây gấy của mồ hôi, tinh khí, rướm máu tanh tưởi dấu móng tay cào cấu sống lưng chú. Trong giây lát phấn chấn tột đỉnh, chú Năm luống cuống gục mặt xuống trũng ngực người đàn bà động cơn, hụt hơi gấp gáp như cá mắc cạn. Chú nhắm mắt, hắt tiếng rảy rớt một đường nước miếng xuống gò vú no căng. Để rồi hụt hẫng, bối rối khi bà Bông xô phắt chú ra, rút xoạc tấm khăn lót lưng, đắp lên phần thân thể trần truồng, nhễ nhại.

Chú Năm còn ngỡ ngàng, chưa biết tính sao thì người đàn bà đã nghiêng mặt vô phiến vách trõm trơ đốm đèn dầu vàng chạch, giọng khô ran:

– Chú đi ra được rồi!

Chú Năm Tự hấp tấp xỏ quần áo. Một sợi tinh lực nhỏ sót xuống đùi. Chú luống cuống chào bà Bông, đẩy cửa bước ra. Chú đánh một vòng quanh hàng ba chưa tỏ ánh ngày. Chó Su quấn theo chân chú, đòi ăn. Tâm trí chú chưa hết lẫn đẫn vì tự sự xảy ra đột ngột mới nãy. Chú ngờ ngợ lo lắng, không biết mình làm như vậy có đúng ý bà Bông?

Như thường lệ, xong bữa lót lòng, chú Năm Tự  đi nón lá, quảy cuốc xẻng ra làm vườn. Nắng chăm bẳm trửng bóng. Chú lẳng lặng đào xới, không vô tư hát hò như mọi khi. Chỉ vài hôm nữa thôi, ông Bông từ Sài gòn trở lại. Ông căn dặn chú, đúng bữa chèo ghe ra sông lớn, đón ông và chở đồ đạc về. Tự dưng chú cảm thấy điều gì nặng lòng. Mấy chuyện động trời ban nãy đúng hay sai? Thâm tâm chú thật tình không muốn dây dưa, đèo bồng thêm nợ nần trần ai hệ luỵ, nhưng chú không biết ứng phó sao cho phải trước tình huống chẳng đặng đừng.

Chú ngừng tay xới đất, ngửng mặt ngó lên mái trời leo lẻo trong xanh. Mồ hôi chú tươm hột bóng lưỡng ngực trần. Chú cởi nón phe phẩy, rồi ra nhà sau kiếm nước uống. Đi ngang giàn mướp chi chít bông vàng, chú thấy cái nón rơm rộng vành tua tuội bông vải của bà Bông móc đầu sào tre. Chắc ma-đàm bỏ quên, chú Năm nghĩ bụng, cầm lấy, đem vô để lên bàn con trong hàng ba. Có con bọ rầy cánh đỏ bám trên cánh bông vải tím lợt. Chú kề miệng thổi. Hương dầu thơm quí phái phảng phất đầu mũi bắt chú điếng lặng vài giây. Chú thở hắt thành tiếng, quay lưng bước một mạch ra sân nắng.

Ngô Nguyên Dũng


(*) Trích đoạn tiểu thuyết “Núi Đoạn Sông Lìa” – 342 tr. – Nxb. Nhân Ảnh 2017 – 20.00$. Sách đặt mua trên Amazon.

Có thể bạn cũng quan tâm