
Tôi sẽ bắt đầu như thế nào, từ đâu, vào lúc nào?
Bắt đầu bằng cách lục soát lại ký ức. Có những chuyện xẩy ra đã lâu nay vẫn hiện lên rõ ràng. Nó buộc chặt vào trí nhớ bằng cái vòng kim cô. Lại có chuyện bị thời gian xóa nhòa không ít thì nhiều, hồi tưởng lại không phải dễ nếu không muốn nói nó không đáng tin cậy cho lắm. Lại nữa, nhiều khi một số thông tin bỗng dưng nảy sinh từ một câu chuyện, hay một chi tiết bất ngờ nào đó có tính cách gợi ý, dẫn dắt. Những thông tin đó là nhịp cầu nối lại những lối đi cũ, những ngõ ngách hiểm trở, những con đường tưởng chừng đã bị đứt đoạn.
Tôi thử nhớ lại một Bài Học Thuộc Lòng có vần, có điệu, được “học thuộc” từ thuở nhỏ, nhưng nay quên bẵng. Chỉ nhớ được 2 câu nằm vào khoảng giữa của bài đó, mỗi câu chỉ có 3 từ, được ghép lại từ những câu tục ngữ, thành ngữ quen thuộc:
Công thì thưởng
Tội thì trừng
Vậy vần với chữ “trừng” là chữ gì? Suy nghĩ một chốc tìm ra được chữ “mừng”, và nhớ luôn cả câu:
Đặng chẳng mừng
Câu tiếp theo tự nhiên bật ra:
Mất chẳng lo
Thế là có 4 câu liên tục :
Công thì thưởng
Tội thì trừng
Đặng chẳng mừng
Mất chẳng lo
Cứ thế cố gắng nhớ những câu khác, dần dần nhớ toàn bài. [1]
Những chuỗi ký ức khác cũng lần lượt xuất hiện theo lối đó.
Vậy vào lúc này đây, những trận lụt lớn nối tiếp, dồn dập ở nhiều nơi tại Miền Trung Việt Nam, nhất là tại Huế, khiến tôi nhớ gì? Nhớ đến thành phố quê hương tôi từng gánh chịu rất nhiều tai ương – thời tiết khắc nghiệt, lụt lội, hạn hán, thất thủ kinh đô, chiến tranh, những hủy diệt, những căm thù, những mồ chôn tập thể v.v … Tuy nhiên cùng với những thống khổ, và những tiếng thở dài là nét duyên dáng, dịu dàng, thanh lịch. Rồi miên man nhớ nhiều chuyện khác.
Cái gì đập vào trí nhớ trước hết? Như đẫ nêu trên, đó là khí hậu, và thời tiết.
Huế có bốn mùa — xuân, hạ, thu, đông. Xuân và thu khá chừng mực, điều độ, hiền lành, trong khi hạ và đông thì ráo riết, quá quắt, hung dữ.
Hè về cùng với những cơn nắng thiêu đốt. Nghỉ hè, rủ nhau đạp xe đạp ra vào những cửa thành rêu phong, chạy quanh núi Ngự Bình, thăm các lăng tẩm, hay đến viếng các ngôi chùa núp dưới những vòm cổ thụ rợp bóng mát. Nóng bức, ngột ngạt, ngày hai buổi ngâm mình dưới sông, dưới hói. Đứa nào bơi giỏi đua nhau bơi ngang qua sông Hương từ bến Thương Bạc bên này sông bơi xéo qua bên kia sông, qua khỏi chân cầu Trường Tiền. Có đứa bơi quanh Cồn Hến. Đứa nào thích đá banh thì tới Sân Vận Động của trường, hoặc họp nhau tại Bãi Dâu, có đám đất cát bồi rộng mênh mông, tha hồ múa may, chạy nhảy.
Huế có nhiều “nhà vườn”. Mùa hè trái chín mùi thơm lan tỏa khắp không gian, đặc biệt là tại vùng Kim Long, Nguyệt Biều. Những người quê vùng đó thỉnh thoảng rủ bạn bè tới nhà chơi, ăn “trái chín cây” — mít, xoài, ổi, thơm, nhãn, vải … Ăn no, tắm mát, nhảy ùm xuống sông. Kim Long thuộc tả ngạn sông Hương, xeo xéo bên kia sông là làng Nguyệt Biều ẩn hiện dưới những vòm cây xanh.
Một số về quê.
Quê xa phía nam như An Nong, Truồi, Cầu Hai, Mỹ Lợi, Cảnh Dương, Cảng Chân Mây, Lăng Cô; phía tây như Bình Điền, Bình Thành; phía tây-bắc như An Lỗ, Hiền Lương, Sịa, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân; phía đông-bắc như Chí Long, Thể Chí, Kế Môn, Đại Lược, Phù Lai, Thanh Hương; phía bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị như Niêm Phò, Phò Trạch, Vân Trình, Mỹ Chánh.
Gần thì có Nam Phổ, Ngọc Anh, Lại Thế, Dưỡng Mong, Dương Nổ, Mậu Tài; hay An Hòa, Văn Xá, La Chữ; hay Liễu Cốc, Hương Cần, Vân Cù, Bầu Đôn; hay Long Thọ, Nguyệt Biều, Lương Quán, Tuần.
Về quê cũng có cái thú của nó. Bẫy chim, câu cá, thả diều, tát đìa. Thỉnh thoảng tập chèo đò dọc theo những con hói bèo nổi lềnh bềnh, hay chạy ra đồng coi nhà nông cày cấy, đắp bờ, tát nước. Khi cần thì giúp bố mẹ trồng sắn, lôn khoai, bứt tót, bắt sâu keo, làm cỏ. Hoặc chăn bò, giữ trâu. Ba tháng nắng giữa thiên nhiên nhuộm nâu làn da học trò.
Hè cũng về với tiếng ve. Thoạt tiên vài ba tiếng ve dò đường, ngại ngùng, rụt rè. Bỗng có tiếng đáp lại gần xa, dồn dập dần. Thế là “Khúc ca mùa hè” nổi lên vang dậy. Cả thành phố và miền phụ cận ngập chìm trong tiếng ve hết hồi này đến hồi khác từ lúc nắng lên cho đến khi chiều tà. Tiếng ve đuổi nhau như sóng cồn giục giã làm đỏ hoa phượng trên sân trường, vàng bông lúa ngoài đồng, chín trái cây trong vườn. Trong khi đó hương sen dưới hồ theo gió bay trên dòng sông, tràn qua những thửa ruộng, lan tới chân đồi, chân núi.
Âm thanh của mùa Hè là tiếng ve. Thế của mùa Đông? — Tiếng ễnh ương.
Thật khó biết được mùa Đông đến ễnh ương kêu, hay ễnh ương đã gọi Đông về. Khi nào thật sự là mùa Đông? Và khi nào thì tiếng ễnh ương đầu tiên vọng lên từ một đám ruộng hoang, một ven đường xóm nhỏ, một bờ ao phủ kín sương buổi sáng, buổi chiều, một đám cỏ ướt sướt mướt.
Mưa êm đềm rơi lên mái tranh, có khi kéo dài suốt mấy tuần lễ. Mưa làm nền cho tiếng ễnh ương rầu rầu từ chặp tối cho đến sáng. Không giục giã từng hồi dài như tiếng ve, ễnh ương kêu ngắn, đều, và dai dẳng. Thỉnh thoảng vào những ngày xám vắng ánh mặt trời, âm thanh não nùng đó cũng lan rộng khắp không gian.
Ễnh ương tìm về quá khứ, ve ve kêu gọi tương lai.
Rồi lụt. Lụt Huế của thế kỷ trước thường xẩy ra vào tháng bảy ta – Tháng bảy nước nhảy lên bờ. Nay thời tiết thay đổi, lụt đến vào mùa Đông.
Khi nước từ các con sông, con hói, tràn lên ngập ruộng vườn, đường sá, trận lụt khởi đầu. Tất cả cửa nẻo trong nhà đều nhanh chóng được đóng lại, không phải vì sợ trộm cướp mà vì sợ nước lụt tràn qua mang guốc dép đi mất. Nước dâng lên dần. Giường phản phải chồng lên nhau. Đồ đạc đặt trên mặt đất được mang lên theo. Người ta phải đứng ngồi vắt vẻo chen lấn với giỏ, bị, va-li, bàn, ghế. Ban đêm không có giường ngủ thì nằm chui rúc trong đám đồ đạc. Những năm lụt lớn, những người ở nhà trệt phải chồng giường, phản lên thành hai tầng, đi đứng lom khom đầu đụng mái nhà. Ở vùng thấp trũng thì phải trổ mái nhà ra ngoài ngồi trên mái nhà dưới những cơn mưa không ngớt mong chờ thuyền bè tới cứu. Nước dâng lên lênh láng, mênh mông. Nước lụt màu trắng bềnh bệch gọi là nước bạc, lạnh thấu xương.
Thiệt hại về vật chất rất nặng nề sau mỗi trận lụt, nhưng số người thiệt mạng không đáng kể do ở mực nước dâng lên chầm chậm, nạn nhân có thì giờ chống chỏi, trốn tránh.
Nay khác. Tháng vừa qua, nước lụt dâng lên quá nhanh. Không phải chỉ riêng tại Huế mà lụt đã xẩy đến tại nhiều tỉnh ở Miền Trung, nước đục ngầu chảy ào ào như thác đổ, người chết như rạ. Chưa có con số chính thức, nhưng theo dự đoán của giới thông tin ngoài luồng thì số thương vong đã lên tới trên vài nghìn người.
Tại sao? Có nhiều lý do. Chẳng hạn vì khí hậu toàn cầu thay đổi, vì nạn phá rừng vô tội vạ hủy hoại nguồn lưu giữ nước mưa, lại thêm vì sợ các đập thủy điện sụp đổ, người ta xả lũ bừa bãi trong khi mưa đang trút xuống liên tiếp nhiều ngày. Tóm lại thiên tai họp với nhân tai giết chết con người.
Còn nhớ, lụt lội gây bao nhiêu khốn khổ cho người lớn, nhưng đối với lũ trẻ vô tâm, vô tư, mùa lụt cũng mang lại nhiều chuyện vui. Được nghỉ học cả tuần lễ, làm bè chống đi chơi đây đó, có khi được ăn cá lúi, cá trôi, cá ngạnh từ nguồn đổ về.
Còn lại là hai mùa Xuân và Thu.
“Ngày xuân con én đưa thoi”, chỉ 6 chữ mà thôi cũng đủ mô tả được cái rộn ràng, nô nức, xôn xao của trời đất đang chuyển mình từ những ngày Đông xám ngắt, ướt át, rét mướt đến tiết Xuân đầm ấm dần, dịu dàng.
Xuân còn về với Tết. Tết ở Huế vang dậy tiếng pháo và thơm ngát mùi nhang khói. Nhang khói, trầm hương lan tỏa từ những ngôi chùa, Huế có nhiều chùa, từ hầu hết mọi ngôi nhà trong thành phố cũng như ở miền quê. Người Huế vốn rất chú tâm đến việc cúng quảy ông bà, tổ tiên. Cuối năm cúng tiễn ông bà, mâm cơm đêm ba mươi, đầu năm cúng đón.
Thu cũng êm ả, dịu dàng, nhưng có khác. Như trong một câu thơ của Xuân Diệu về mùa Thu, Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì. Vâng, Thu bâng khuâng, tần ngần đến như chưa muốn đến, chưa dám đến, như e sợ mùa Đông khắc nghiệt đang rình rập ở chân trời. Trên cao, một màu xanh biếc, tơ trời bay dùng dằng, tiếng chim qua mơ hồ (Mơ hồ trong một tiếng chim qua– Thu, Xuân Diệu); dưới thấp dòng sông Hương nước tan thành lệ âm thầm đuổi theo những con thuyền trôi vật vờ như chiếc lá.
Thu cũng chứng kiến ngày tựu trường, ngày ngày tái ngộ, của tình bạn, của tình yêu tuổi học trò. Bạn bè, người đẹp, sau 3 tháng gặp lại xiết bao vui mừng, bồi hồi. Có người từ Quảng Bình, Quảng Trị vào, có người từ Quảng Nam, Quảng Ngãi ra.
Nhưng Huế đâu phải chỉ có thời tiết, khí hậu, và dăm ba câu chuyện như vừa kể trên. Còn có nhiều điều khác nữa, nói sao cho hết. Vậy hãy giới hạn vào một vài khía cạnh về thân phận người con gái Huế nói riêng, con gái, phụ nữ Việt Nam nói chung.
Mấy câu thơ của Hồ Dzếnh đành rằng là lời tán tụng:
Cô gái Việt Nam ơi
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
…
Cô gái Việt Nam ơi
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi
nhưng cũng khiến ta liên tưởng đến những lời than, tiếng khóc đắng cay. Đó là những âm vang kéo dài không ngớt trong dòng lịch sử nước nhà, đặc biệt nhất là từ khi công chúa Huyền Trân “đền nợ Ô, Ri [2], đắng cay vì đương độ xuân thì” cho đến ngày gọi là ngày Âm Hồn của Huế, tức là ngày Thất Thủ Kinh Đô 23 tháng 5 năm 1885, hàng ngàn chồng con của họ đã tử trận khi đánh quân xâm lăng Pháp đóng bên bờ sông Hương (nay người dân xứ Huế vẫn hàng năm tưởng niệm ngày ấy). Đánh không thắng nổi, một số khác đông hơn theo vua Hàm Nghi kéo ra Quảng Trị tiếp tục cuộc kháng cự kéo dài nhiều năm, để lại vợ con nheo nhóc.
Rồi đến vụ Mậu Thân 1968. Tại Huế, hàng ngàn chồng con của họ đã hy sinh tính mạng hay bị chôn sống. Tiếp đến chiến tranh liên miên, miền Nam sụp đổ, hàng vạn người mất mạng hoặc bị tù đày, họ lại một mặt thay chồng chăm sóc, dạy dỗ đàn con, mặt khác băng rừng lội suối đi thăm nuôi người thân còn sống sót.
Cuối cùng, vượt biển, vượt biên. Đại đa số các gia đình lo cho chồng, cho con trai lớn ra đi. Ở lại là người đàn bà và đàn con bé nhỏ. Thì họ lại phải một mình nuôi con ngày đêm chờ đợi tin tức sống hay chết của người đang trên đường tìm cách đào thoát, chưa dám nghĩ đến ngày đoàn tụ trở lại.
Trên đây là những gam màu khá u ám. Tiếp theo dưới đây sẽ là bức tranh màu hồng chăng?
Khi Huế chưa có trường Đại Học, học sinh học xong Trung Học ở Huế, tuyệt đại đa số là phái nam hầu hết vào Sài Gòn tiếp tục đèn sách. Miền Nam, nhất là Sài Gòn, là xứ sở của cơ hội, dễ sống, dễ tìm việc làm, cho nên khi học xong Đại Học, họ lại ở luôn trong Nam xây dựng sự nghiệp, lập gia đình. Những ai có điều kiện sẽ đi du học tại Pháp, Mỹ, Canada, Úc. Một số đến tuổi thì nhập ngũ vì chiến tranh ngày một leo thang, họ phải theo đơn vị chiến đấu nay đây mai đó khắp 4 vùng chiến thuật. Thành phố Huế, do đó, ngày càng vắng những cậu con trai ở tuổi yêu đương hoặc tuổi lập gia đình.
Và chuyện tất yếu phải xẩy ra. Nhiều cuộc tình duyên đành đứt đoạn nửa chừng. Nhiều “o gái Huế” — những thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng, xinh đẹp — mới bắt đầu biết yêu thì đã chợt nhận ra rằng tình yêu như dấu chim bay.
Cho nên nhớ Huế nhớ luôn cả một mối tình dang dở vào thời kỳ đó, được diễn tả bằng những câu thơ trang nhã và man mác buồn.
Người đẹp cùng với người yêu đi trong lòng thành phố Huế đẹp không kém, đẹp và buồn, trang nghiêm và cổ kính, lãng mạn và trữ tình. Tay trong tay, bàn tay bối rối. Tới Ngã Giữa tà áo ai lộng thổi phố sâu, đi song đôi dưới mưa, dưới nắng, nắng dễ thương, mưa cũng dễ thương, có mặt trời, mặt trăng làm chứng, có Hàng Đoát ngước nhìn. Buổi chiều, buổi tối cùng vào Cửa Ngăn để bước lên thềm Đại Nội thơm ngát hương ngâu. Lại có lúc tới xóm Ngự Viên dưới ngọn đèn mờ trong sương, hay qua Vỹ Dạ nhìn trăng soi, nhìn những hàng cau theo dấu hai người đi suốt những chặng đường.
Nhưng họ sẽ không hẹn nhau, tìm nhau. Vì sớm biết hẹn cũng không thể gặp, tìm cũng không thể thấy. Một nỗi thê lương, u hoài, như muốn kéo dài đến vô tận. Tuy thế tình yêu và kỷ niệm vẫn có lúc thảng thốt trở mình dậy dưới lớp tro bụi vùi kín.
Dưới đây, bài thơ Dấu Xưa Tro Bụi của nhà thơ Sông – Hương.
Dấu xưa tro bụi
Cảm ơn người không từng lui tới
vẫn bao năm hiện diện trong lòng,
làm ngọn lửa ấm soi cùng với,
chút tình hư của Huế, thâm cung.
cảm ơn người xưa từng chung lối,
nắng dễ thương, mưa cũng dễ thương,
mặt trời sáng và trăng buổi tối,
soi chứng nhân, Hàng Đoát ngước nhìn.
Gió Ngã Giữa [3] làm tay bối rối,
tà áo ai lộng thổi phố sâu,
chiều xuống thấp Cửa Ngăn vào tối,
giữ bên thềm Đại Nội hương ngâu.
Cảm ơn người về trong giấc ngủ,
mắt Ngự Viên chong ngọn đèn sương,
đêm thôn Vỹ trăng treo đầu ngõ,
có hàng cau nhìn suốt chặng đường.
Đã không hẹn, trăm năm chẳng lạc,
sẽ không tìm, lòng vẫn còn nhau,
hoàng thành cũ nghiêng dài bóng mát,
phủ niềm đau rêu biếc bạc đầu.
cảm ơn người dù nay lâu lắm,
Huế đã xa, tâm cũng vô thuờng,
khi chợt nhớ, lửa tàn vẫn ấm,
dấu bụi tro vùi kín yêu thuơng.
Ngự Thuyết
12/2025
————-
[1] Dùi đánh đục/Đục đánh săng (gỗ, áo quan)/Ách giữa đàng/Mang vào cổ/Ăn bữa giỗ/Lỗ bữa cày/Đặng buồng này/Quaybuồng nọ/Ăn thì có/Ó thì không (Ăn thì có mặt, bị gọi đến thì né tránh)/Của một đồng/Công một lượng/Công thì thưởng/Tội thì trừng/Đặng chẳng mừng/Mất chẳng lo/Ăn chưa no/Lo chưa tới/ Ăn cơm mới/Nói chuyện cũ/Cha mẹ cú/Đẻ con tiên/Cha mẹ hiền/Sinh con thảo.
[2] Châu Ô, châu Ri, của Chiêm Thành, nay là Thừa Thiên Huế. Vua Chiêm Thành dâng 2 châu đó cho nước ta để đổi lấy công chúa Huyền Trân.
[3] Ngã Giữa: Tên cũ của đường Gia Long trước 1975.