Nguyễn Đức Tùng: Hải phận quốc tế

Tác giả: Nguyễn Đức Tùng
Thuyền nhân Việt Nam sau biến cố 1975. Photo courtesy of UNHCR

Tôi mất ý thức về phương hướng. Không gian chỉ còn một chiều, phía trước, phía sau. Phía sau là quê nhà, phía trước là sự chọn lựa. Biển xanh như ngọc khi chúng tôi ra đến hải phận quốc tế. Nó chờ chúng tôi ở đó, hiện hữu ngay cả trước đại dương. Hải phận quốc tế là một huyền thoại. Ai cũng nhắc đến, nhưng không ai biết nó là gì. Ra đến hải phận quốc tế, thì con người không thuộc về đất nước của mình nữa, mà thuộc về cộng đồng thế giới, thích chưa? Lúc ấy trời đất cảm nhau mà biến hóa, từ một sinh hai, từ hai sinh bốn, từ bốn sinh tám. Cứ thế liên miên, bất tuyệt, mọi vật sinh trưởng, người với đất với trời là một. Tồn tại ung dung, có sanh có diệt mà không sanh diệt. Trong ý nghĩ của mọi người, thuộc về quốc tế tức là thuộc về những quy luật của loài người, khách quan, dễ hiểu. Thuộc về những đặc tính phổ biến của vũ trụ, lẽ công bằng của tự nhiên, tức là không bị ai đánh đập vô cớ, không bị ai tra hỏi bất ngờ, thích ăn thì ăn, thích mặc thì mặc, thích nói thì nói, không thích nói thì không nói. Ai cũng được tôn trọng, ai cũng được học hành, ai cũng được mưu cầu hạnh phúc và tình yêu. Tóm lại hải phận quốc tế là một lãnh thổ mới bên ngoài các lãnh thổ, một cõi giới mà con người muốn đạt tới, nhưng khác với thiên đường hay niết bàn, nó hoàn toàn có thật. Nhưng hải phận quốc tế nằm ở đâu, cách bờ biển bao xa thì không ai biết rõ, trừ bác tài công, nghe nói là một sĩ quan hải quân chế độ cũ, một người luôn tỏ ra bận rộn với cái tay lái của mình, với tấm la bàn mà chính tôi mua trước khi xuống tàu, lúc nào cũng ngước nhìn sao trời, chẳng rảnh hơi đâu mà giải thích những khái niệm sơ đẳng ấy cho bà con. Theo sách vở, từ đất liền có vùng nội thủy với lãnh hải 12 hải lý, kế đó là vùng tiếp giáp lãnh hải, thêm 12 hải lý, rồi thềm lục địa, tức vùng đặc quyền, 200 hải lý tính từ bờ, rồi thềm lục địa mở rộng. Như vậy hải phận quốc tế bắt đầu ngoài khơi cách bờ khoảng 200 hải lý. Tôi cứ tưởng rằng ở biên giới của hải phận quốc tế ấy tất phải có những cái mốc đánh dấu, sặc sỡ như những quả bong bóng lớn có màu xanh đỏ trắng vàng mà tôi thấy trong các cuộc đua ghe. Hay những cái cột có cắm cờ bay phấp phới hay một thứ gì tương tự. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: chúng ta tin rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, tin rằng đấng tạo hóa trao cho họ những quyền ấy, những quyền không thể bị từ chối, trong đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc. Biển xanh sóng vỗ dìu dặt. Văn minh của nhân loại cũng tựa như một lớp sương mỏng trên mặt nước, bên dưới là đáy biển sâu thăm thẳm của những tham vọng điên cuồng. Nhưng giờ đây nhịp điệu của cơ thể tôi hòa làm một với nhịp điệu của biển, nhịp điệu của cơ thể làm tôi hiểu biết. Tâm trí tôi sáng bừng. Tôi hồi sinh. Tôi nghẹt thở vì hạnh phúc. Hạnh phúc có màu gì? Trong lúc đăm đăm nhìn xuống mặt vịnh mơ màng, lam ngọc, tôi chẳng hề thấy một cột mốc nào trên mặt biển cả. Nhân loại không rảnh rang đến nỗi đi cắm cột mốc phân định biên cương dành cho người vượt biển, hễ ra thoát rồi thì tha hồ mà khoa chân múa tay. Không có một nhân loại nào đứng ở các biên cương cả. Không có một nhân loại nào chờ ta ở cuối con đường đau khổ. Thế mà trưa chiều hôm ấy, khi nghe người tài công tuyên bố thuyền của chúng tôi đã ra đến hải phận quốc tế, mọi người đều sung sướng hò reo, bọn thanh niên leo cả lên sàn thuyền, mắt mở to nhìn về phía trước như thể từ trên vùng biển quốc tế ấy đang có một cái gì to lớn chờ đợi họ, như một tòa lâu đài đầy ánh sáng hay một cái phòng họp vĩ đại hình cánh cung trong các cuộc họp của đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trang nghiêm, mĩ lệ, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy trên mặt báo. Tôi quay lại, nhìn thấy một người đàn ông lớn tuổi, một nhạc sĩ chơi vĩ cầm nói giọng Hà Nội, tóc bạc, râu bạc, đang lặng lẽ khóc. Đó là những giọt nước mắt vui sướng đầu tiên.

Khi một dân tộc sung sướng, người ta làm gì?

Ôm lấy nhau. Khóc.

Người ta làm gì nữa?

Tha thứ. Tha thứ hết.

Bầu trời mây trắng bay qua từng đám mỏng như tơ, thật nhanh, như dấu hiệu tốt lành, gây ra trong tâm trí tôi tiếng động vang vang trong trời đất, không phải mưa, không phải gió. Tiếng di động của những đám mây trên mặt nước. Người chủ thuyền cầm trong tay một nắm lá, sắc xanh biếc như trắc bách diệp, phát cho mỗi người một lá, bảo là lá may mắn. Mọi người cầu nguyện. Nhiều người leo lên sàn thuyền, tôi lắng nghe tiếng thì thào, tiếng nức nở, tiếng kêu, ngay cả những đứa trẻ cũng thôi khóc, con thuyền nhỏ bé nêm chặt một trăm mấy mươi người vang lừng một thứ âm nhạc không lời của nỗi hân hoan cùng cực. Vào lúc ấy tôi nhận ra rằng tiếng động tưởng tượng của đám mây thực ra là từ đàn chim thiên di bay qua thấp thoáng trong mây. Loài chim lớn, tiếng kêu khàn đục của bầy ngỗng trời phương Bắc bay qua mặt vịnh Thái Lan khi gió đổi mùa. Đường bay thay đổi đột ngột không ai biết trước. Lắng nghe tiếng kêu của chúng như an ủi như vỗ về, làm lòng tôi bình tĩnh lại. Tôi quỳ xuống trên sàn thuyền, hai chân bám chặt mặt gỗ nhám, để tránh rung lắc, điềm tĩnh, vững vàng, im lặng lắng nghe. Liên Hương quỳ xuống bên cạnh tôi. Chúng tôi tựa vào nhau. Đối với tôi, tiếng của bầy chim thiên di tựa như những huyền thoại được kể lại từ cõi nào xa vắng, như âm thanh mở cõi về phương Nam của các tiền nhân, như sự nén lại của thời gian, trước khi bùng vỡ, như sự mềm mại của nước trước khi cuồn cuộn chảy đi. Trước, tôi chưa bao giờ để ý tới điều ấy, thỉnh thoảng có nghe tiếng vạc ăn sương, nhìn thấy một bầy sếu bay qua sông, nhưng chưa bao giờ lắng nghe chúng một cách chăm chú và rõ ràng như vậy, một phần chúng bay vào đêm tối hoặc lẫn vào sương mù. Liên Hương đưa tay chỉ cho tôi thấy, trên mặt nước có sự thay đổi kỳ lạ, tựa như một lớp sương mỏng dâng lên tuy mờ mờ nhưng vẫn cho phép người ta nhìn thấy những vật ở xa, nhờ mặt trời chiếu sáng. Gió thổi mạnh làm cho lớp nước thỉnh thoảng trôi dạt đi, rẽ những đường trong suốt như đường kỷ hà học, đẹp lạ lùng.

Gần nửa ngày sau khi vượt qua ranh giới của hải phận quốc tế, một ranh giới tưởng tượng, khi mặt trời đỏ ối đã chìm xuống nước, mặt biển tối lại rất nhanh, gió trở lạnh, khi Liên Hương và mọi người đã chui trở lại lòng thuyền, khi chỉ còn tôi và vài người thanh niên khác ngồi lại trên sàn, một tiếng động lớn làm rung chuyển con thuyền. Tiếng động rất lớn, rất gần, phía đuôi, gần bánh lái và máy thuyền. Tiếng mìn nổ. Mùi khét rẹt trong không gian, bay khắp mặt nước. Mùi lưu huỳnh. Mùi thuốc nổ TNT, một người nói. Tất cả lao xuống sàn thuyền, không phải lao xuống mà bị một sức mạnh hất xuống, làm tê liệt. Chết máy. Bánh lái thuyền vỡ nát. Con thuyền dừng lại, xoay vòng vòng. Tôi bàng hoàng, sợ hãi, một nửa người cứng lại, tôi đưa tay sờ mặt, sờ ngực, cảm thấy ướt, đưa tay lên mũi ngửi, không phải mùi máu, chỉ là nước biển mặn hắt lên cao, tôi biết mình không bị thương, không chảy máu. Mùi thuốc nổ cháy khét bay đặc không gian, mùi kim loại làm tôi ngạt thở. Có tiếng la khóc từ dưới lòng ghe vọng lên, sau đó là im lặng. Tiếng máy của một chiếc thuyền khác, lớn, nổ ngay bên tai tôi, nó xình xịch chạy đi, mỗi lúc một xa. Người tài công lồm cồm bò dậy, báo tin thuyền không chạy được nữa. Người chủ thuyền, tài công, thợ máy xúm xít ở đuôi xem xét các mảnh vỡ, bánh lái thuyền đã bị gãy, máy hư hại vì một quả mìn có sức công phá lớn nổ ngay bánh lái, loại mìn tựa như thủy lôi được ném xuống từ một chiếc tàu khác. Nước tràn vào từ một lỗ thủng. Mọi người im lặng đưa mắt nhìn nhau, trong tâm trí vang lên hai chữ. Cướp biển. Hai chữ ấy vang rền trên mặt nước, như một loài thú dữ của biển, như nỗi sợ hãi truyền đời của người dân chài. Chúng đến, tiếp cận sát thuyền của chúng tôi, nhận ra cái máy thuyền có công sức mạnh đẩy thuyền đi nhanh, nên chúng quyết định đánh mìn làm hỏng máy, sau đó bỏ đi. Tôi nghe nói rằng ngày trước bọn cướp biển không cẩn thận thế, ngay khi vừa nhìn thấy thuyền tị nạn chúng liền xông lại, bất kể ngày đêm, ào ạt nhảy lên thuyền, nhưng sau này, do dư luận quốc tế và trong một số thuyền, người tị nạn phản ứng chống trả quyết liệt, chúng trở nên cẩn thận hơn, bao giờ cũng tìm cách phá máy thuyền trước khi cướp. Thời đó, sau những dư luận xúc động trên thế giới, nhờ những cố gắng không mệt mỏi của nhiều người, các tòa án xét xử bọn cướp biển bắt đầu được mở ra ở Bangkok và một số thành phố khác. Bọn cướp trở nên khôn ngoan hơn, chúng chỉ hành động vào đêm tối và hung dữ hơn, chúng giết người bịt miệng, bắt phụ nữ đem đi chứ không thả ra như trước đây.

Kẻ nọ chờ người kia, không ai lên tiếng trước. Tôi thấy trống rỗng, ngơ ngác, quên mất bầy ngỗng trời, quên mất thông điệp của chúng, khi mùi thuốc lưu huỳnh đã tan bớt, tôi cố hít lấy khí trời như thể chẳng bao lâu nữa sẽ không còn được hít thở nó. Tôi tìm Liên Hương. Nàng ôm lấy tôi trong bóng tối. Chẳng bao lâu nữa đời sống như chúng tôi được biết sẽ chấm dứt, làn nước trong xanh kia, đám sương mù lãng đãng mà gió thổi xẻ đôi chúng ra như dải lụa, tất cả những điều ấy sẽ không còn nữa và tôi không còn nữa. Và người thiếu nữ bên cạnh không còn nữa, và mùi hôi thối của thùng cầu tiêu đặt ở mũi tàu bên cạnh tôi không còn, và mùi hương dạ lý của mái tóc kia không còn. Cùng với chúng, sẽ không còn ngày về, sân trường đại học, cơn mưa ngắn trước nhà thờ Ba Chuông khi tôi đến đón nàng, ngõ hẻm, ngôi nhà cuối ngõ, hàng cây trứng cá rợp bóng mát chúng tôi đạp xe thong thả từ rạp chiếu bóng về. Tôi nghe thời gian đứng lại, trí óc bùng nhùng, mơ hồ tiếng nức nở của một người đàn bà, tiếng khóc của một đứa trẻ, trong khi người thợ máy và người tài công loay hoay tìm cách sửa tàu, mỗi lúc một tỏ ra tuyệt vọng, sau khi sự im lặng đáng sợ phủ trùm lên mọi người, sự sợ hãi mới bắt đầu từ từ xâm chiếm tôi. Tôi và những thanh niên khác thay nhau bịt lỗ hổng nước tràn vào, cởi áo sơ mi ra làm giẻ nhét vào lỗ hổng, không còn nghĩ về mình nữa, không còn nghĩ đến sự sống chết của mình nữa, tôi cảm thấy căm ghét mặt biển, tôi sợ nước, như một người không biết bơi dù tôi bơi cũng khá. Tối tăm, hoảng loạn, đất trời mịt mù chao đảo. Tôi sợ hãi cho một người khác. Biển trở thành nỗi kinh hoàng. Biển há miệng khổng lồ nuốt tất cả vào như cơn sóng thần từ xa lừng lững tới. Hãm vào cảnh tối tăm, tiến không xong, lui không được, con thuyền chết máy xoay vòng như vận mệnh một toán quân thất trận. Khóc khóe mắt ra máu đầm đìa.Liên Hương cầm chặt tay tôi. Tay nàng run lên trong bóng tối. Điều mà tôi nghĩ đó là sự sợ hãi của nàng, bây giờ tôi biết rằng không phải. Bây giờ tôi biết rằng tình yêu lớn hơn, tình yêu lớn như một ảo tưởng, nhưng không phải ảo tưởng, nó có thật trên đời. Bây giờ thì mọi người biết chắc bọn cướp sẽ quay lại, bao giờ không ai biết, có thể ngay bây giờ, đêm nay, có thể ngày mai, hay tối mai. Không phải cái chết mà sự chờ đợi cái chết, làm mọi người run lên, bất lực, bất động, và sau một lúc hoàn toàn hoảng loạn, tan tác, mỗi người văng đi một mảnh, vào một góc, như một gia đình sau khi đứa con út tự vẫn. Sự chờ đợi là không giới hạn. Chúng kéo dài ra như một không gian được làm bằng vật liệu co giãn, khi nén lại, khi căng ra, sự tra tấn tinh thần của cánh cửa nước.

Nguyễn Đức Tùng
(Trích Thuyền)

Có thể bạn cũng quan tâm