
1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành từ sau tháng 4 năm 1975, khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Đợt di tản đầu tiên gồm hàng chục ngàn người, quân nhân, viên chức, dân thường, đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp. Suốt những năm dài sau đó, người Việt vẫn tìm cách ra đi, mà đỉnh cao là phong trào thuyền nhân những năm 1980. Càng về sau, đặc biệt sau những đợt thanh lọc của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp quốc, năm 1990, trong khi số người vượt biển giảm đi, thì những hình thức ra đi khác lại tăng lên: ra đi có trật tự ODP, HO và nhiều lối hợp pháp, như đầu tư, hôn nhân, đoàn tụ, gởi con đi du học, hợp đồng lao động. Thực chất vẫn là tìm cách vượt thoát. Nếu quan niệm một cách rộng rãi, từ năm 1975, phong trào bỏ nước chưa bao giờ dừng lại. Đó là tình trạng kết hợp giữa lưu vong và di dân. Điều này cần được hiểu một cách sâu sắc, nếu có người muốn tìm hiều về cộng đồng hải ngoại. Hiện nay người Việt có mặt trên hầu hết các nước trên thế giới, từ Bắc Mỹ đến châu Á, từ châu Âu đến châu Phi. Cấu trúc phức tạp: người đi từ miền Nam, người đi từ miền Bắc, người tị nạn, người du học. Riêng tại Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu, thành phần trung tâm của các cộng đồng là những người di tản, các thuyền nhân và con cháu họ, bên cạnh một số du học sinh đi trước 1975. Khi mở rộng ra đến vài nước châu Âu, Đông Nam Á, Nhật, Hàn, Đài Loan, cấu trúc ấy thay đổi và không ổn định: người di dân mới gần với trong nước hơn.
Lưu vong vừa là hiện tượng xã hội vừa là một hiện tượng văn học. Trong khi người Việt hải ngoại là một cộng đồng được xác định về mặt địa lý, ở ngoài đất nước, thì tiếng nói của họ không chỉ phản ảnh đời sống của người Việt tại hải ngoại mà còn là tiếng nói của người dân bản địa và của người Việt trong nước, của dân tộc.
2. BA THỜI KỲ
Thơ là một diễn trình: diễn trình năm mươi năm. Tôi tạm thời phân chia thành ba giai đoạn hay thời kỳ văn học. Việc phân chia này chỉ có tính cách quy ước, vì các ranh giới giữa chúng không rõ ràng. Sau này hy vọng các nhà nghiên cứu văn học sử sẽ có cách tiếp cận khoa học hơn.
Thời kỳ thứ nhất: 1975-1989. Khởi đầu bằng sự sụp đổ của miền Nam dẫn đến dòng người di tản tháng 4 năm 75 và phong trào vượt biển tìm tự do bắt đầu từ cuối những năm 1970. Về mặt văn học, đây là giai đoạn của văn học lưu vong, chấn thương, hoài niệm. Về phương pháp sáng tác trong thơ, chịu ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn và hiện đại của miền Nam. Về hệ tư duy: tiền hiện đại và hiện đại. Về hình thức của thơ hầu hết là thơ có vần với sự phát triển ban đầu của thơ tự do.
Thời kỳ thứ hai: 1989-2000. Đánh dấu bằng sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu, trong khi phong trào vượt biển lắng xuống thì hiện tượng vượt tường của đồng bào miền Bắc từ Đông Âu qua các nước tự do Tây Âu tăng lên. Cùng thời gian, chính sách “đổi mới” của nhà nước Việt Nam làm bùng lên trong một thời gian ngắn nền văn chương cởi mở, xem lại, tự vấn và phản kháng, bắt đầu bởi tờ Văn Nghệ dưới sự lãnh đạo của Nguyên Ngọc. Thời kỳ ra đời của các tác phẩm nổi tiếng của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Duy. Ở hải ngoại, thơ Việt Nam bước vào thời kỳ mới, chuyển sang khuynh hướng hiện thực, với hệ tư duy ngày càng mang tính hiện đại và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do, trường ca và các bài thơ dài ngày một phát triển.
Thời kỳ thứ ba: từ năm 2000 đến nay. Khoảng những năm 2000 mở đầu với nhiều biến động trên thế giới, các cuộc xung đột mang tính quốc gia và khu vực, sự va chạm giữa hai hệ thống dân chủ và độc tài, sự trở lại của chiến tranh lạnh. Sự phát triển về công nghệ vượt bậc, đánh dấu bởi một nền văn học được truyền đi trên mạng internet, smartphone. Văn học liên mạng ra đời. Sau hai đợt thuyền nhân những năm 80 và tường nhân những năm 90, người Việt tiếp tục bỏ nước ra đi với các hình thức di dân mới. Việc giao lưu giữa trong nước và ngoài nước, giữa các nước nơi người Việt định cư ngày càng tăng, mang lại những nội dung và phong cách mới của văn học và thơ ca, hiện nay không thể dễ dàng tổng kết được. Đặc điểm của thơ thời kỳ này là sáng tác hậu hiện đại, với hệ tư duy hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do chiếm đa số. Về chất lượng, người làm thơ và tác phẩm ngày càng đông đảo thì chất lượng ngày càng kém và pha tạp. Các nhà phê bình và các tờ báo có uy tín đánh mất tiếng nói của mình. Tuy nhiên trong đám cỏ dại vẫn có những bông hoa. Ngoài ra các tác giả trong nước không thể in trong nước được đều có thể đăng trên báo giấy, báo online, hoặc in sách ở hải ngoại, làm cho việc định nghĩa vùng văn học ở hải ngoại trở nên rộng rãi và khó khăn hơn.
3. TÂM THỨC LƯU VONG
Trong thời kỳ ban đầu, tâm thức lưu vong chính là lòng hoài niệm:
Chú nào ngồi hiên nhà ta chiều nay
Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát
Sau một ngày nắng lóa chín tầng mây
Những mái tôn cười ran hạnh phúc
Thơ Cao Tần, nụ cười héo hắt, tình ý dạt dào. Đây là đối thoại lạ lùng, giữa một người từ quá khứ, xa, và một người trong hiện tại, gần, xuyên không gian, thời gian. Và hình như muốn xuyên qua chia cắt hận thù. Nghĩ về quá khứ, những ngày hạnh phúc, giúp con người tăng cường lòng tự trọng, nâng cao bản lĩnh, mang lại nhiều can đảm để đối phó với sóng gió thực tại. Nhờ vào cảm giác về tính mục đích của đời sống, trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Khi bạn nghĩ về cơ cực của người thân ở quê nhà, sự hy sinh của cha mẹ thời thơ ấu, bạn tìm ra ý nghĩa của sự tự do. Bạn càng biết chắc về mục đích đời sống, càng sở hữu nhiều ý nghĩa, bạn càng bớt cảm giác hoang mang, thất vọng, hoài nghi. Thật ra, hoài niệm chỉ là một trong nhiều khuynh hướng, thậm chí không phải là khuynh hướng quan trọng nhất, của thơ hải ngoại.
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Vần điệu, tiết tấu, nhịp đi, cách dừng lại, cách ngắt dòng mang theo các nguyên mẫu ký ức. Thơ lục bát có thể được viết rất mới như Du Tử Lê, hoặc Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Huy Tưởng. Hoài niệm là chu kỳ, và trong thơ, chu kỳ tựa lên nhạc điệu. Thơ hải ngoại, dù đó là thơ lưu vong của người tị nạn, hay thơ của di dân về sau, đều mang tâm sự của kẻ sống xa quê nhớ nước. Lòng hoài niệm có thể có tác động âm tính, gây nên buồn rầu u uất, ngăn cản con người tiến về phía trước, nhưng cũng có thể tác động dương tính: giữ thăng bằng tâm trạng, gây cảm giác phấn chấn, kích thích năng lực sáng tạo, tăng cường khả năng liên lạc, lòng yêu làng xóm, lòng trung thành, tình cảm thủy chung.
Mai Thảo vượt biển:
Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm
Đụng cây neo lạnh buốt bên mình
Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua
Giữa nghìn con sóng tới
Giữa ngần ấy sóng xa
Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta
Trong khi con người tìm cách xuyên qua các biên cương, đi tìm Cái Khác, họ cũng mở rộng thêm khái niệm quê hương. Khái niệm quê hương của người Việt sống xa đất nước là nhân phẩm và khoan dung. Một cách lạ lùng, trong trạng thái tha hương, thơ tự nguyện trở thành một phần của cuộc sống, kẻ ghi chép của lịch sử, khi lịch sử không cần đến nó và thôi không tồn tại nữa. Thơ hải ngoại, vì tính chất tình nguyện ấy, mang trong nó số phận và sứ mệnh của lưu vong. Số phận, nên nó là thơ trữ tình, sứ mệnh, nên nó là thơ chính trị. Trong khi tự do cá nhân là thành tựu lớn lao mà nhân loại đạt được những thế kỷ vừa qua, thì cái giá phải trả của chủ nghĩa cá nhân không ai được quên: chỉ có tôi là trước tiên, người khác là thứ yếu, cộng đồng là thứ yếu, sự liên kết giữa các cá nhân là thứ yếu. Lưu vong, nếu là việc rời xa bản quán để tìm đến nơi tự do, lại chính là một cố gắng làm ngược lại với hiện tượng tách rời. Lưu vong vì tự do là cố gắng chống lại các trấn áp và chia rẽ, sự chia cắt con người khỏi chỗ đứng của họ, mảnh đất của họ, tôn giáo của họ, nơi thờ phượng và tình yêu của họ. Cảm giác thuộc về một tập thể là cảm giác tin cậy ấm áp, cần thiết cho sức khoẻ thể chất, tâm thần và tinh thần. Ý nghĩa của lưu vong vượt ra ngoài khả năng trả lời của một cá nhân, một tập thể, thậm chí của nhiều thế hệ. Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó của đời sống, câu hỏi về ý nghĩa, bằng chính đời sống của chúng ta, và vì thế, bằng cách chung thủy với các lý do đã làm phát sinh quá trình tị nạn, và kéo theo nó, được nâng đỡ trên vai nó, quá trình di dân những năm về sau, của chúng ta. Lưu vong còn là một hiện tượng ngôn ngữ, cũng rắc rối như một vấn nạn quốc tịch. Tôi nối kết, do đó tôi tồn tại. Tan rã là đứt mạch các chuỗi nối kết. Tôi không còn thuộc về ai.
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
Đó là đoạn mở đầu của bài thơ Hãy tưởng tượng ra em của Trần Mộng Tú, viết ngay sau tháng 4 năm 1975. Việc chọn dùng câu ngắn, có vần, lặp lại, làm cho bài thơ tựa ca khúc, đồng thời như lời kể. Tác giả giữ được sự thăng bằng giữa xúc động và lý trí, giữa ám ảnh quá khứ và cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có phải là một lựa chọn may mắn không? Lưu vong có phải là một lựa chọn? Rõ ràng là thơ của người nữ viết cho người nam, chàng đâu đó, sống hay chết, tự do hay tù tội. Tình yêu của người nữ trên xứ sở mới là sự phản kháng hai lần đối với cuộc đời, số phận của một người Việt lưu vong và số phận của người phụ nữ đánh mất tình yêu, trong cuộc chiến tranh tàn bạo. Bài thơ vừa độc thoại vừa đối thoại, kêu gọi đáp ứng. Trong khi đó, từ một nơi khác, trên quê hương, nhưng bên ngoài xã hội, một người đàn ông:
Đất lạ, người ta sống thế nào?
Trong lòng có sáng những trăng sao,
Có buồn bã lúc mùa trăn trở,
Có xót thương người qua biển dâu?
Những câu thơ của Tô Thùy Yên tôi đọc trong năm tháng xa lìa đã đánh thức, xô dạt, làm va đập trong tôi tình yêu thơ ca, tưởng đã chết, tình yêu đất nước, tưởng đã vô nghĩa. Tình yêu đất nước?
Những câu thơ nhiều hình ảnh mà ít ẩn dụ.
Nhưng thơ lưu vong không phải chỉ là thơ miền Nam nối dài. Từ trại tị nạn Hồng Kông, rất sớm, và sau bức tường Bá Linh, công đoàn Đoàn Kết, cách mạng nhung Tiệp Khắc, và nhiều sự kiện chấn động khác ở châu Âu, thơ và văn học hải ngoại còn được bổ sung bằng những cây viết tài hoa ra đi từ miền Bắc, với những quá khứ có thể khác, tâm sự khác, và tất nhiên, với văn phong khác: như Lâm Quang Mỹ, thơ của hội nhập, Thế Dũng, thơ của phản kháng, Đỗ Quyên, thơ của hồn Việt viễn xứ, như Châu Hồng Thủy, Đỗ Quang Nghĩa và nhiều người nữa.
Chữ lạ, ngang tàng, Thế Dũng:
Dăm ngôi mộ trong hồn. Hoa héo úa
Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan
Mây như khói tóc ai chiều thu xõa
Liệm làm sao? Dĩ vãng chửa tro tàn!
Khả năng phản ảnh hiện thực thể hiện trước hết ở độ gần của tác giả và chiến tranh. Nhà thơ không có khoảng cách xa hay độ lùi thời gian an toàn có thể bị tổn thương tâm lý. Trong tình huống nghiệt ngã, văn chương không thể được đọc và viết như cũ, chúng phải được đọc như lời kêu thét của nạn nhân, lời khai của kẻ bị lăng nhục, như hiện thực bị bóc trần. Thanh Tâm Tuyền, trong trại cải tạo:
Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu
(Thanh Tâm Tuyền, Thơ ở đâu xa, 1990)
Cuộc nội chiến hai mươi năm chưa bao giờ rời bỏ chúng ta, sự chia rẽ dân tộc chưa được hàn gắn, dù hôm nay có nhiều người từ chối sự thật ấy. Người lính nhớ lại cuộc chiến mà họ thua trận:
Trường Sơn giờ đây ra sao nhỉ
đất nước còn đó cỏ hoa tươi
An Lộc liền tên cùng Quảng Trị
hỡi anh em vinh hiển đời đời
nhờ mi An Lộc thành bất tử
nhờ mi tên Quảng Trị vang rền
bút thép, mực máu, trái tim lửa
còn ghi tên lịch sử anh em
(Đỗ Quý Toàn, Đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam)
4. BÚT PHÁP MỚI
Bút pháp là hình thức. Ai làm chủ được hình thức thì làm chủ được thời gian. Một cách viết mới thường bắt đầu ở giọng điệu. Giọng điệu của thời bây giờ: hài hước, bất cần, đau buồn, thách thức, đầy ý thức về mình và về thế giới. Đó chính là khởi đầu của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tất nhiên, thơ không phải chỉ là giọng điệu. Một nền thơ mới cần có thể loại mới, cấu trúc mới, chữ và hình ảnh mới, tư tưởng mới. Từ những năm giữa hai thế kỷ, thơ hải ngoại chuyển từ hệ tư duy hiện đại sang hệ tư duy hậu hiện đại. Đối với nhiều người, căn cước một quốc gia, căn cước cá nhân bị đánh mất. Ý thức tập thể trở nên hỗn loạn: điều này xáo trộn các khái niệm vốn có của quê nhà. Trước đó, ở miền Nam, sau một thời gian dài với những trăn trở tìm kiếm có tính nghệ thuật, triết học, nền văn học, trong đó có thơ, bước dần tới giai đoạn cuối của những câu hỏi siêu hình. Những năm trước 1975, các nhà thơ ngày càng tách rời khỏi đời sống, tự mình trở nên xa lạ trước cuộc chiến máu đổ thịt rơi trước mắt: văn học miền Nam bế tắc. Những vấn đề xã hội ngày càng cấp bách, chiến cuộc ngày càng lan rộng, thì hình như các nhà thơ, trừ một vài trường hợp đặc biệt, đều có khuynh hướng từ chối nhập cuộc. Thơ hải ngoại vừa kế thừa thơ miền Nam, vừa tìm cách vượt ra khỏi ảnh hưởng này của nó: thơ ngày càng hiện thực, ngày càng soi sáng, ngày càng ý thức.
Cao Đông Khánh:
Trời đất xa hơn chiều cao tưởng tượng
mô phỏng đời người duyên nợ truân chuyên
một hôm đại hãn vượt trùng vây ra biển
ở biển tôi vào chẳng thấy được bao dung
Thời tiết chật hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó có người bị xử tử
Thơ là tưởng tượng. Nhưng đó là sự tưởng tượng cần thiết cho đời sống con người, nuôi dưỡng trong họ những nối kết tâm linh và văn hóa, vốn đã bị bẻ gãy và đang ngày càng bẻ vụn. Tôi muốn nói về thi pháp của sự tan vỡ, như là một trong các tâm điểm của thơ ca hôm nay. Thời nào cũng thế, người đọc trung bình bao giờ cũng chống lại sự thay đổi, sự làm mới. Ngôn ngữ của thơ thật sự bao giờ cũng là thứ ngôn ngữ không thể đoán trước được, và bao giờ cũng là một thử thách cho người đọc. Sự đổi mới trong thơ hải ngoại, sự thành công và thất bại của nó, trước sau cũng sẽ có quan hệ đến điểm này.
Đỗ Lê Anhdao:
Đàn bà mà không mặc áo lót là không biết làm vợ”
người đã từng bảo tôi điều này
là người tình đầu tiên:
bảnh bao, quyến rũ, người Việt Nam
anh ta tự hào xưng mình có trách nhiệm bảo tồn truyền thống dân tộc
trung thành với gói thuốc 555 và cà phê phin Pháp
người tình nhắc tôi thường xuyên
phụ nữ Việt Nam tứ đức
công, dung, ngôn, hạnh
nhưng riêng anh thì vẫn lui tới mấy “quán cà phê bikini” đều đều
Những cách tân trong thơ hải ngoại trải rộng khắp từ khuynh hướng đến bút pháp. Đọc thơ là một kinh nghiệm đặc biệt mà các hoạt động khác không thể mang lại. Thơ dẫn bạn trực tiếp đến sự trải nghiệm trong hiện tại, mặc dù nhà thơ có thể nói về một nơi chốn khác, một thời gian khác, những nhân vật mà bạn chưa hề biết. Từ Cao Tần, thơ mộng, đến Nguyễn Đăng Thường, một trong những nhà thơ hậu hiện đại đầu tiên, với phong cách giễu nhại:
Ngày trở dìa anh bước lia
Trên quãng đường kia tới bên quán bia
Nắng vài tia đàn tiên vú chìa mời đón người dìa
Vợ tò mò ra trước hiên
Đứng ngó người xưa ngỡ trông thấy ma
Tiếc rằng ta không có chổi chà vì muốn tặng quà
Ngày trở dìa trong quán bia
Anh kể chiện nghe chiện đời sống mĩ
Rất mê li ngày đi chém thuê đêm nằm nhìn quê
(Ngày trở dìa)
Đỗ Kh., một trong những nhà thơ thực hiện cách tân sớm nhất trong thơ Việt:
Tôi thích ngồi sau em trên yên xe
Lăng quăng những con đường Hà Nội
Rất sóc hoàng lan
Hoa sấu vòng vèo
Rù rì Quán Sứ mùi hoa đại
Đêm rất yên lành nhà máy điện
B52 giờ là một thứ rượu đàn bà
Nhẹ như những ngày phụ nữ giương tên lửa
Tôi thích ngồi ôm em sau yên xe
Cổ em mát và đít em rất ấm
Một tay tôi đỡ ngực em chùng xuống nặng
Còn tay kia thõng
Như đang cầm M16 bằng băng đạn
Chạy ra cầu Bình Lợi xem một vòng
Chiến xa Bắc Việt kìa sắp đến
Nhưng lịch sử chẳng bao giờ tái diễn
Không phải thơ cách tân nào cũng giễu nhại như thơ Đỗ Kh.. Có những thi sĩ rất mới mà trữ tình, đằm thắm. Thường Quán sử dụng ký ức, nhưng thách thức và khám xét bản chất của ký ức ấy, làm cho chúng sáng lên bởi cọ xát. Anh là tiếng nói của thơ đương đại. Có lần, anh gởi cho tôi mấy dòng thơ phóng túng, ngẫu cảm, mà rất chi Thường Quán.
NĐT, ah!
Bạn tới
trao cỏ cây
chẳng đi lấy bình tích
chẳng đưa tay tháo gỡ
chỉ ngồi, chỗ ngồi đấy
khoanh nắng
(thì đúng là trên đùi, bạn ghi nhận)
nguyên vẹn cũ càng
vì ngày mai
kẻ ấy biết
Bạn đã bắt đầu nhận ra chất giọng ấy, của người thơ ấy, phải không?
Sự lặp lại, nhẩn nha. Sự đọc chậm. Lặp lại là hình thức tồn tại của thơ ca trong thời gian. Ý thức về sự thiếu sót của ngôn ngữ, về sự bất toàn của khả năng giao tiếp, khởi đầu từ ý thức từ chối lòng tin vào các sự thật được phô bày, truyền tụng. Đối với nhà thơ, các sự kiện không phải là sự thật, chính cảm nhận của con người đối với các sự kiện ấy mới là sự thật. Thơ Thường Quán tiêu biểu cho điều ấy. Vì vậy người đọc muốn lắng nghe anh.
Bên cạnh các tên tuổi lớn từ miền Nam như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Minh Đức Hoài Trinh, Nhã Ca, Viên Linh, những người bắt đầu làm thơ từ sau 1975 và một số viết từ trước 1975 nhưng vẫn tiếp tục sau đó, đã tạo ra khuôn mặt của thơ hải ngoại: Du Tử Lê, Cao Tần, Mai Trung Tĩnh, Thanh Nam, Đỗ Quý Toàn, Nh. Tay Ngàn, Mai Thảo, Nguyễn Đăng Thường, Trần Mộng Tú, Cao Đông Khánh, Luân Hoán, Viên Linh, Đỗ Kh,. Khế Iêm, Thi Vũ, Lê Thị Huệ, Thường Quán, Huy Tưởng, Nguyễn Xuân Thiệp, Trịnh Y Thư, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Hoàng Nam, Vũ Hoàng Thư, Đỗ Quyên, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Thanh Bình, Tôn Nữ Thu Dung, Phạm Cao Hoàng, Lữ Quỳnh, Trần Trung Đạo, Lê Đình Nhất Lang, Đinh Linh, Vương Ngọc Minh, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Hàn Chung, Lâm Quang Mỹ, Thế Dũng, Đỗ Lê Anh Đào, Lưu Diệu Vân, Bắc Phong, Uyên Nguyên, Nguyễn Linh Quang, Phan Ni Tấn, Đức Phổ, Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Trần Thị Nguyệt Mai, Vi Lãng, Đặng Thơ Thơ, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Thận Nhiên, Đinh Trường Chinh, Phan Huyền Thư, Trần Hạ Vi, Bùi Mai Hạnh, Võ Thị Như Mai, Phan Tấn Hải, Nguyễn Thanh Châu, Như Quỳnh de Prelle, Pháp Hoan, Đỗ Quang Nghĩa, Nam Dao, Nguyễn Đức Tùng. Danh sách không đầy đủ, còn dài hơn thế.
Mối quan hệ giữa người lưu vong đối với quê hương là một quan hệ chặt chẽ về tinh thần nhưng khó khăn. Việc đăng tải các tác phẩm ở trong nước có thể được xem như một chỉ dấu cho quá trình hòa giải giữa những người khác quan điểm, hay là chỉ dấu cho sự dấn thân trở lại đối với các vấn đề Việt Nam. Tùy theo quan điểm của người tiếp cận mà việc xuất hiện như thế có thể được xem là dấu hiệu tích cực hay tiêu cực, được ủng hộ hay bị đả kích tơi bời. Sự thay đổi còn diễn ra do những người di dân ngày nay càng lúc càng thực dụng, họ không ra đi vì các lý do chính trị như người vượt biển. Như vậy thơ hải ngoại, sự khác biệt, sự hội nhập, là những vấn đề khá mới mẻ đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam.
(còn nữa)
Nguyễn Đức Tùng