Nguyễn Đức Tùng: Nửa thế kỷ thơ Việt hải ngoại (Kỳ 2)

Tác giả: Nguyễn Đức Tùng

5. HỘI NHẬP VÀ GIAO LƯU

Hội nhập với thế giới và giao lưu với trong nước là hai tính chất quan trọng của văn học và thơ hải ngoại.

Biểu tượng trung tâm của thơ hải ngoại ngay sau năm 1975 là hồi ức và suy nghĩ của những người sống sót, đi tìm tự do. Nếu biểu tượng của văn học phản kháng trong nước hiện nay là sự phản kháng, thì thơ hải ngoại đi song song với dòng chảy ấy. Sự ám ảnh về tự do và nô lệ tất sẽ dẫn đến nỗi ám ảnh về quê hương, về những rào cản giữa người lưu vong và bản xứ, về những kinh nghiệm tổn thương của tù đày, vượt biên, nghèo khổ, những ngày đầu tiên trên đất khách.

Hội nhập vào xã hội mới là một quá trình khó khăn đối với tất cả những người di dân và tị nạn, nhưng đặc biệt với người Việt Nam, vì nhiều lý do chính trị, xã hội, văn hóa. Tuy không còn chết chóc, tù đày, đói kém, những thành phố châu Âu và Bắc Mỹ nơi họ tới, bất chấp sự chào đón ban đầu thân thiện của chúng đến đâu, vẫn chứa đầy các thách thức nghiêm trọng.

Tô Thùy Yên, sau mười ba năm tù tội, đến Mỹ:

Nước Mỹ này quá rộng và quá buồn
Anh không còn muốn tự định liệu
Tốc độ cao gài cố định mặc
Đường trường lái băng đêm
Như tự nguyện thất giạt

Mối quan hệ căng thẳng giữa người mới đến và vùng đất mới còn tăng lên gấp đôi vì ám ảnh của cuộc chiến, vì khác biệt về quan điểm đối với cuộc chiến tranh ấy, và tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, những khác biệt về văn hóa và các giá trị gia đình. Người ta thường nói đến thế hệ thứ nhất, rời Việt Nam khi đã trưởng thành, thế hệ thứ hai rời Việt Nam khi còn thiếu niên, thế hệ thứ ba sinh ra ở nước ngoài.

Khi thế hệ thứ ba tỏ rõ khả năng hội nhập mạnh mẽ của chúng, cũng là lúc xảy ra thách thức lớn đối với mỗi gia đình và các cộng đồng: mối dây liên lạc giữa thế hệ thứ ba và quê hương cũ, cội nguồn xưa cần được duy trì như thế nào, sợi dây ấy cần được buộc chặt đến đâu, buông lỏng đến đâu. Quá trình hội nhập xảy ra khác nhau về cả hai phía, ở người Việt Nam, tùy thuộc bạn là người Nam hay người Bắc, cựu quân nhân hay học sinh, người thành thị hay người nông thôn, người Kinh hay người Thượng thiểu số; về phía quốc gia đệ tam, tùy thuộc bạn ở đâu, châu Âu hay Bắc Mỹ hay Úc, và ở Bắc Mỹ, Hoa Kỳ hay Canada. Điển hình ở quá trình hội nhập ở Mỹ thường được gọi bằng chữ melting pot, tức là nồi nấu chảy, những người mới đến lập tức vứt bỏ những giá trị cũ của họ, các truyền thống chính trị, lịch sử văn hóa và học hỏi mau lẹ các giá trị của một xã hội dân chủ, vì họ phát hiện ra chúng có lợi cho họ một cách thực tế. Những thuyền nhân xưa vẫn giữ lòng chung thủy:

Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
Cửa mở cầu thang để sáng đèn
Bạn tới lúc nào không biết nữa
Mưa thả đều trong giấc ngủ đen

(Mai Thảo)

Sự thương thảo giữa quá trình lưu vong và sự trở về, cầu thang mở sáng đèn như một ẩn dụ của tình yêu, bạn như một ẩn dụ của quê hương. Tiếng nói được cất lên từ những vùng địa lý và chính trị khác nhau bắt đầu bắt được những tần số tương ứng ở nơi khác, đó là những mô tả về thiên nhiên, sự vật, và con người trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng phản ánh hiện thực vào trong thơ không thuần túy chỉ là hiện thực, chúng bao giờ cũng là thái độ của nhà thơ đối với hiện thực ấy. Cũng như một bài thơ tả cảnh, cảnh vật bên ngoài thực ra là tâm cảnh, là bức họa của tâm trí. Tương tự như thế, những bài thơ có đề tài thời sự chính trị, hay có xúc cảm chính trị xã hội thường che giấu cảm xúc cá nhân.

Thơ hải ngoại vẫn còn là sự nối kết mạnh mẽ của tâm hồn người Việt tị nạn, lưu vong, sống xa tổ quốc. Chúng ta vẫn tìm thấy nhau trong tiếng nói lặng lẽ, cất lên từ những phận đời, buồn hay vui, thành công hay thất bại, bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Anh và ngôn ngữ khác. Thơ hôm nay dù chất lượng không đồng đều, chưa có những tác phẩm xứng đáng với mong đợi, thì cũng phần nào nói lên được tâm trạng và khát vọng của người Việt, nói lên cố gắng giữ gìn những giá trị văn hóa của dân tộc và những giá trị nhân bản của miền Nam tự do. Chính sự thay đổi về nội dung của thời đại, các xung đột mới, những vấn đề mới về chính trị và văn hóa, buộc thơ phải thay đổi.

Chúng ta cần sẵn sàng hơn nữa trong việc tiếp nhận các giá trị thơ ca thế giới, tham gia vào sâu hơn nữa các hoạt động của nền thơ bản xứ, da trắng, da đen, da vàng. Người Việt hiện có mặt khắp nơi, thế mà sự tiếp cận văn hoá bản địa của chúng ta hãy còn khá hời hợt, về văn học và văn hóa, về thơ và nghệ thuật. Đó là điều đáng tiếc.

Thơ hôm nay cần những diễn đàn có uy tín, sự giao hòa với các nhà thơ thế giới và trong nước, cần tiếng nói của các nhà phê bình. Vượt qua tâm lý làng xóm, bè phái, tâm lý cây đa cây đề, người Việt hôm nay, với lòng yêu tiếng mẹ đẻ, cần tiếp nhận nhiều hơn nữa các khuynh hướng văn học và thơ ca thế giới, làm mới ngôn ngữ của mình, đưa thơ Việt Nam tới gần tiếng nói chung của nhân loại. Đó cũng là mong mỏi của người đọc thơ trong nước, từ một xã hội không có tự do báo chí. Để làm được như vậy, thơ ấy cần phải mới, lạ, hay, phải phản ảnh tâm hồn người Việt hôm nay trong bối cảnh của một xã hội vừa thăng tiến về văn minh vừa hỗn loạn về văn hóa, tiếng nói của những con người đông đảo và cô độc, hiện đại và đầy lo âu, chán nản và cũng đầy tình yêu cuộc sống. Yêu cuộc sống tức là yêu tự do và yêu sự thật. Lê Thị Huệ:

Sự thật làm tim tôi khó thở
chết ngất in một năm mù mịt giữa xuân thì
sống dậy thấy mình thành người đàn bà quá quắt
chỉ ân ái với sự thật

Hai mươi năm tôi chọn làm kẻ bòn hương cho sự thật
với tấm lòng mối lái cải lương
say sưa ca hát qua những phỉnh phờ
trên môi những người khôn khéo lời
trong mắt những người gian ngoan ngọt

Tấm thảm đỏ giữa đời không sự thật

Tôi qua sông nhưng lẻ loi
chọn cô đơn làm lữ hành
nước mắt có khi rơi xuống
giữa những cơn xử trảm của kẻ tưởng như bạn
đòi xẻo lưỡi tôi vì đã nói lên sự thật

(trích Kẻ ám ảnh sự thật, 1995)

Những hình ảnh chồng chất lên nhau trong một bài thơ hiện đại và hậuhiện đại phản ánh sự khổ đau và tai ương của cá nhân, vừa cụ thể trong một hoàn cảnh lịch sử vừa siêu hình như một câu hỏi. Khuynh hướng  mỉa mai, hài hước, cái nhìn từ bên lề được thúc đẩy bởi chủ nghĩa hậu hiện đại làm cho nhà thơ có khả năng đứng trên lịch sử hay đứng ngoài lịch sử, từ chối tham dự vào lịch sử như nạn nhân. Các nhà thơ hải ngoại không phải là những người nổi tiếng trong khả năng mô tả những hoàn cảnh cực độ, khổ đau của người dân trong nước, cho đến nay họ vẫn ít có những bài thơ thật xuất sắc thật xúc động về đề tài này. Họ cũng không nổi tiếng về những đề tài chính trị, những bài thơ cổ vũ đấu tranh. Tuy nhiên một người đọc thơ cần hiểu rằng một nền thơ có những xuất phát riêng biệt, ngược với một nền văn học tuyên truyền, nó chỉ có thể đối kháng với các lực lượng đối lập bằng phương pháp tự vệ, tức là tự biện hộ cho nó, và để đối lập với cái ác, nó chỉ có khả năng tốt nhất khi trình bày tình yêu và của cái đẹp. Vai trò của cá nhân mỗi người là hết sức quan trọng. Thơ Việt hải ngoại ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, sau bao nhiêu biến động lịch sử, trong không khí làm việc tự do, nhưng thiếu một môi trường thuận lợi, một đất nước; các diễn đàn lưu vong không thể sánh được, ví dụ với không khí thời miền Nam trước đây. Tuy nhiên các nhà thơ bằng những cố gắng riêng rẽ của mình đã tạo ra những bút pháp mới, hình thức mới, dần dần xây dựng một hệ thẩm mỹ khác hẳn với thời kỳ trước 1975. Thơ Việt hải ngoại hầu hết là thơ trữ tình, ngắn, chuyển động từ thơ có vần sang thơ tự do, ngôn ngữ ban đầu khá cũ, về sau dần dần thoát ra được, ngày càng tươi mới. Chúng ta muốn đi tìm tình yêu ở chốn hận thù, sự thăng hoa ở nơi dung tục, đi tìm mơ ước ở nơi triệt tiêu mơ ước, đi tìm tự do trong nhà tù. Hầu hết những điều chúng ta tìm thấy trong thơ ca, không thể tìm thấy ở một nơi khác. Thơ phản kháng như linh hồn của thơ hôm nay, bất kể hải ngoại hay trong nước, hoặc viết ở trong nước nhưng xuất hiện ở hải ngoại.

Chúng ta yêu nhau, yêu bằng hữu
Kinh ngạc và thích thú biết bao
Chớp mắt. Thấy mình có trong nhau
Mở cửa. Thấy anh em đông đủ
Bắt tay, chào hỏi. Thấy thành phố
Bước đi, trò truyện. Thấy quê hương
Hất mặt, vươn vai. Thấy bầu trời
Hít hà. Thấy thời đại mình thở

Trần Dạ Từ. Thơ phản kháng là tiếng nói của nhân dân, của người dân, mà nhà thơ là người đại diện của họ. Ai đề cử nhà thơ là người đại diện ấy? Chính văn chương của họ, xúc cảm, tài năng của họ. Dù sự thể hiện khác nhau do những điều kiện xã hội chính trị, tôi cho rằng những nhà thơ sau đây, ít hay nhiều, bằng tác phẩm của mình, đã đứng vào danh sách những nhà thơ có tác phẩm mang tính chất phản kháng: tất cả những người viết quan tâm đến thế sự, đến Tổ quốc, đến số phận đau thương của những hoàn cảnh riêng lẻ, những người tù, những nạn nhân của cướp biển, những kẻ bị tra tấn. Do những điều kiện khách quan của đời sống hải ngoại, do kế thừa những thành công và thất bại của nền thơ miền Nam, như tính sáng tạo ngẫu hứng và sự thiếu lý luận phê bình, các nhà thơ ở hải ngoại, tuy có nhiều thành tựu về sáng tác, đã không tận dụng được ở mức tối ưu chất liệu thơ ca qua những khúc quanh như di dân, vượt biển, tù đày, những năm tháng gian nan đầu tiên ở xứ người. Sự dừng lại quá lâu ở các hình thức cổ điển đã hạn chế sự phát triển thi pháp. Trong khi đó, ở những bứt phá, làm mới, thậm chi nổi loạn về ngôn ngữ, sự thành công chưa ở mức thuyết phục, còn giới hạn ở những thay đổi bề mặt có tính kỹ thuật. Các nhà thơ “song ngữ”, có thể viết vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh hay các ngôn ngữ khác, như Đinh Linh, Trịnh Y Thư, Thường Quán, Đỗ Lê Anh Đào, Lưu Diệu Vân, Phan Quỳnh Trâm, Nguyễn Đức Tùng, Đặng Thơ Thơ, Ngu Yên, Lê Đình Nhất Lang, Nguyễn Hoàng Nam, Khế Iêm… là một đặc điểm của thơ hải ngoại. Bút pháp của họ, cùng với các nhà thơ người Việt nhưng chỉ viết tiếng Anh, như Ocean Vuong, Phong Nguyen, Mộng Lan, Lại Thanh Hà, có lẽ sẽ để lại dấu ấn sâu trên thơ Việt.

Mùn phùn, phất lệ,
Ðơn điệu, đu đưa,
Ðã làm nhèm nhẹp bao nhiêu cặp vú lép?
Làm sao để giải phẫu hoàn toàn
Vành tai tiếng Việt?

Đinh Linh. Anh gần như là một người Mỹ, trong thơ ca và ngôn ngữ, trong đời sống và hành trạng của anh, thế nhưng anh vẫn dành nhiều suy nghĩ và những xúc cảm cho đất nước bên kia Thái Bình Dương, vì vậy những chủ đề trong thơ anh và các thủ pháp nghệ thuật đều đan quyện vào nhau như một tấm thảm dệt nhiều màu sắc, tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt, trào phúng xen lẫn trữ tình, phớt tỉnh mà sâu sắc, vui chơi mà rầu rĩ, đầy chất lang thang vô sở xứ mà vẫn mang chất lưu vong lưu lạc hơn là kẻ du ca. Trịnh Y Thư, thơ mộng hơn:

Once upon the time, I was here
the land of many legends and myths
piercing through history like a raging arrow.
Somewhere under the scorching sun
standing still like a fool, the perfect outcast
looking for a perfect return in the dust-riddled city.
Treacherous and excruciatingly hard life seems
whirling in a frenzied circle just like anywhere else on earth,
but so astoundingly I remain untouched — for reasons
I cannot fathom — as if my existence were trapped
in a boundless dimension.

(trích The Landscape of Forgetting)

Xưa kia, ta đã ở đây
miền đất của bao huyền thoại và truyền thuyết
xuyên qua lịch sử như mũi tên mãnh liệt.
Đâu đó dưới mặt trời rát bỏng
đứng lặng ngây hệt một gã khờ, kẻ bị bỏ rơi
kiếm tìm sự trở về hoàn hảo nơi đô thị đầy bụi bặm.
Nghiệt ngã đớn đau và bất trắc cuộc sống dường như
xoay vần trong vòng quay điên cuồng, cũng giống trên trần gian bất cứ nơi nào
nhưng kinh ngạc sao vẫn còn ta nguyên vẹn — bởi những lý do
ta không thể tìm ra — như thể sự tồn tại của ta bị mắc kẹt
ở một chiều kích khôn cùng.

(trong Miền Lãng Quên, Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Bảo Chân)

Với sự phát triển của truyền thông xã hội, ranh giới của văn chương mở rộng. Sau các báo giấy như Văn, Văn Học, Làng Văn, Khởi Hành, Nắng Mới, tạp chí Thơ, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, Việt, Việt Báo, Chủ Đề, sự đóng góp của các trang mạng là rất lớn: Văn học nghệ thuật, Talawas, Da Màu, Gió- O, Diễn Đàn Forum, Tiền Vệ, Diễn đàn Thế kỷ, Văn Việt, Thế Kỷ Mới, các trang online của báo giấy như Việt Báo, Người Việt, Thời báo (Canada), và các trang riêng của các nhà thơ như Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Thiệp, Vũ Hoàng Thư, Phạm Cao Hoàng, Tôn Nữ Thu Dung, Trần Thị Nguyệt Mai…. Gần đây xuất hiện trở lại hai tờ báo in trên giấy là tạp chí Ngôn Ngữ do nhà thơ Luân Hoán chủ trương và tạp chí Văn Học Mới của nhà thơ Hà Nguyên Du, là những cố gắng đáng trân trọng. Dù được viết theo phong cách nào, thơ hải ngoại cũng chứa đựng yếu tố quan trọng: kẻ làm chứng của thời đại mình. Các yếu tố thơ ca hướng tới việc xây dựng cảm xúc và tư tưởng ở người đọc dựa trên các sự kiện cá nhân hoặc cộng đồng. Ngôn ngữ thơ phát triển trong mối quan hệ với việc xây dựng các ẩn dụ văn chương. Tiếng Việt trong sáng, chính xác, cụ thể. Ngôn ngữ ấy được người Việt lưu vong mang đi qua các biên giới và giữ gìn cẩn thận cho đến hôm nay. Theo quy luật tự nhiên, một số chữ, một số cách nói sẽ trở nên cũ và bị loại bỏ, một số chữ mới, cách nói mới từ các sinh ngữ khác và từ trong nước, sẽ được tích hợp vào một cách tự nhiên, không cố gắng, không áp đặt. Thơ là phần tinh hoa của một ngôn ngữ, không những thế ở đó một ngôn ngữ mới được tạo lập. Ngày trước, người Việt đã có trường ca, truyện thơ, kịch thơ, thơ tự sự, ngày nay hầu hết thơ được viết là thơ trữ tình, tuy vậy các cố gắng mở rộng thể loại rất cần được khuyến khích. Một bài thơ hay cần phải là một bài thơ vừa hay vừa lạ. Tôi yêu thích một bài thơ vì tôi tìm thấy ở đó những cảm xúc mà tôi có thể có, hơn thế nữa, chúng được trình bày một cách mới mẻ. Hơn thế nữa, nhà thơ ấy có thể mở cho tôi một cánh cửa, và giữ cho ngôi nhà thơ ca của mình những tư tưởng sâu sắc, thuyết phục, mà tôi có thể chia sẻ, như lòng yêu nước, sự can đảm, tình yêu tự do. Một bài thơ dùng những chữ đẹp, nhưng không có tư tưởng, chỉ là loại thơ trang trí, và tôi sẽ không quay trở lại. Những nhà thơ tôi trích dẫn chắc chắn không đầy đủ. Có nhiều nhà thơ và những bài thơ hay mà chúng ta không thể đề cập tới trong một bài luận ngắn, nhưng những nhà thơ được trích dẫn đều có chung một điểm là tính cách nhân chứng đối với thời đại họ đang sống. Tính chất làm chứng ấy quyết định giá trị của thơ trong bối cảnh của người Việt ở xa nhưng lúc nào cũng hướng về xứ sở. Đó là tiếng nói của người không thể giữ im lặng, đó là lòng xúc động không thể cất giấu được nữa. Đó là sự phẫn nộ và yêu thương, nỗi buồn và hy vọng.

(còn nữa)

Nguyễn Đức Tùng

*Nguyễn Đức Tùng: Nửa thế kỷ thơ Việt hải ngoại (Kỳ 1)

Có thể bạn cũng quan tâm