
Khởi đầu cho bài viết này là những hình ảnh, bút tích của Thầy – một thời mà con còn giữ lại. Giữ lại để làm kỷ niệm một thời không quên dưới mái Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, và nơi Thư Viện Vạn Hạnh – Phân Khoa Khoa Học Ứng Dụng thời đó. Chỉ là một phần nhỏ mà thôi trong quãng thời gian dài 50 năm qua.
Thời gian 50 năm đó, khi thì cắp sách đến lớp học để học những gì Thầy giảng dạy, để nghe những gì Thầy nói – nghiêm túc, chọc cười, hay dí dỏm nhà thiền trên nền văn học qua các bộ môn: Tư Tưởng Triết Lý Phật Giáo, thơ văn thời xưa Trung Hoa cổ đại, hay khắp mọi miền văn hóa Đông Tây Kim Cổ.
Âm thanh vang dội nhẹ vào bốn vách tường, bụi phấn rơi lất phất dính vào vạt áo nâu bạc phếu. Vầng trán cao, đôi mắt sâu muôn thuở, giọng nói người Quảng Bình lẫn nắng mưa của miền dâu bể… mà cho đến bây giờ, 50 năm qua, con chẳng quên được. Chẳng quên một người Thầy đặc biệt hiếm có trong đời.
Cái hiếm ấy sẽ được lần lượt trình bày xuyên suốt một sự nghiệp mà cứ ngỡ rằng như mơ, như thật, như bóng nắng chiều hôm, như sương mù buổi sáng, và như tiếng vang của thiền trượng – hay tiếng gầm của sư tử, tượng vương.
1. Phong Cách Của Các Câu Đối
Thập phương điều ngự phi khứ phi lai,
Hùng hùng sư tử tần thân, đạp xuất sơn hà tịnh tuý.
Tam thế truyền đăng bất sanh bất diệt,
Cũ cũ tượng vương hồi cố, phát khai nhật nguyệt tranh quang.
Phật như tánh hải nhất vị đồng nguyên,
Sơ loan bào ảnh phù trầm, sinh diệt hà tằng xuất một.
Đà-la-ni môn thiên trùng tế ngữ,
Lục kính sương đài tỉnh mặc, viên âm na xứ đoạn trường.
Vượt Trường Sơn nghìn dặm Bắc Nam, nhìn nắng đọng sân chùa, khách có biết mấy lần dâu bể?
Ngắm sông bạc một màu chung thuỷ, lắng chuông ngân đầu cỏ, người không hay một thoáng vô vi.
Ý nghĩa thâm sâu, nghệ thuật dùng chữ đã nội hàm bao hương sắc Phật Pháp cao siêu mà ít ai có được tài năng này. Từ cái nôi Phật giáo Việt Nam đã nuôi lớn Thầy, bằng những giọt sữa ngọt, bằng những lời ru êm thâm trầm, để Thầy chứng đạt đỉnh cao trí tuệ trong Phật Pháp.
Đỉnh cao trí tuệ ấy – một Thắng Man Giảng Luận – qua lời Tựa:
“… Từ đó cho đến nay, một, hoặc nhiều thế hệ đã ra đi, biến mất trong bóng tối của đêm dài sinh tử; nhiều thế hệ mới ra đời. Phôi bào trong Như Lai Tạng vẫn tiếp tục kết rồi rã, thành rồi hoại. Dòng tương tục vẫn tiếp nối không ngừng.
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng.”
2. Thơ Mộng Trong Thi Ca Và Hùng Tráng Trong Ý Vị Thiền Học
Thầy đã khơi nguồn, tác tạo cho bao thi nhân mặc khách viết về Thầy. Bao cây bút gạo cội trên nền văn học thi ca đã hết lời ca tụng. Trong câu chuyện được coi như là đồng nghiệp nơi Đại học Vạn Hạnh thời đó, Bùi Giáng đã viết về Thầy:
“Tuệ Sỹ, một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, nhưng không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u…
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế.
Vậy tôi xin lai rai thử viết:
“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty.”
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình. Nhưng ai có ngờ đâu, nhà sư kín đáo, e dè kia – không hề bao giờ có vướng lụy – lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm. Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía, mất ăn mất ngủ.”
Bằng lời nói của một nhà thơ lớn cuối thế kỷ 20 cũng đủ khẳng định vị thế của Thầy trên nền văn học thi ca nước nhà. Nền văn học thi ca ấy đã phô diễn biết bao âm thanh làm vang động đến núi rừng, biển sâu và hố thẳm. Từng giọt sương thi ca ấy rơi rụng xuống từng mảnh đất tâm của bao thế hệ luôn ngưỡng vọng và bái phục như một cung bậc thiên tài giữa xã hội người hôm nay.
Như Tuệ Hạnh khấp đề nơi lời “Tựa” của Ngục Trung Mị Ngữ:
“Thiên tài Tuệ Sỹ – thi tài, văn tài, triết thuyết, biện tài – không còn cần phải được xưng tụng.
Tác phẩm và con người Tuệ Sỹ hai mươi năm qua đã minh xác điều đó. Các danh xưng ‘nghệ sĩ, triết gia, học giả…’ đều chỉ là danh ảo mà thôi.”
Hãy lắng nghe từng làn hơi thở hay ý vị của lòng còn treo lơ lửng trên cành cây nơi chốn rừng xanh:
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa, ngược nước xuôi ngàn.
Bùi Giáng bình thơ của Thầy để rồi cuối cùng hạ bút viết thành câu:
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ trùm lấp chân trời mới của Đường thi Trung Hoa tới Siêu thực Tây phương.”
Thơ mộng đến thế là cùng. Thơ mộng một phương trời viễn mộng.
Thơ mộng trong thi ca tuyệt cùng như thế nào thì hùng tráng trong ý vị Thiền cũng chẳng thua kém. Triết gia Phạm Công Thiện đã nói về ý vị Thiền của Thầy như sau:
“Tôi được may mắn quen biết Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát khi hai vị này còn rất trẻ, còn dưới 20 tuổi. Bây giờ hai vị đã được 45 tuổi. Lúc tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa; bây giờ thì hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc …
Nhưng tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là ‘hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt Nam hiện nay’?
Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với tất cả thận trọng và suy nghĩ chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cái nhìn khác thường của tôi đối với nhị vị.”
Trên là ngôn ngữ của một triết gia nói về tự tánh Thiền của Thầy – mà tự tánh Thiền phải là: “lỗi lạc”, “thông minh”, “uyên bác”, “trong sạch”. Còn từ ngữ nào phô diễn để cúng dường đầy đủ ý nghĩa hơn?
Sống trong đời mà không để đời chi phối; mang áo giáp vào lửa mà lửa không cháy được; giữ tâm an nhiên, bất động, tự tại – mà hòa quang đồng trần giữa chợ đời lắm bôn ba. Hiện thân Thiền cho đời bớt khổ. Cứu đói đời cho được ấm no:
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn.
(Ngục trung mỵ ngữ, Tuệ Sỹ, nxb Đà Nẵng 2024)
3. Phương Trời Mộng Hay Lịch Nghiệm Qua Các Áng Văn
Thầy – khổ người mảnh gầy và khô, khô như Khô Mộc Thiền Sư, như Ô Sào Thiền Sư – nhưng sao lại nội hàm một phương trời mộng. Một phương trời thi ca mông lung, huyền diệu. Một trời thơ mơ mộng lại tồn trữ trong khổ người gầy ấy – quả thật hiếm có.
Cái gì làm nên chất liệu thơ trong Thầy? Nếu có ai đó từng sống gần Thầy, thì sẽ trả lời được ngay.
Thầy sở hữu một trí tuệ tu chứng. Nhờ vào trí tuệ tu chứng này mà Thầy đã đột nhập và phá tung tất cả những cánh cửa phiền não, sinh tử, để rong chơi khắp mọi miền thi ca thơ mộng: khi thì trên đỉnh núi cao, khi dưới lòng hố thẳm hay đại dương mênh mông nghìn trùng sóng nước; lúc lại đứng giữa dòng sông nhuộm nắng mà kể lại chuyện ngày cũ xa xưa… Ấy là tâm hồn của một phương trời viễn mộng.
Thầy đã hít thở nền văn học Hán tạng, do vậy rất giỏi chữ Nho. Từ nét chữ chân, chữ triện, chữ thảo… nét chữ nào Thầy cũng lịch lãm. Từ văn học Hán tạng đó, Thầy bước sang văn hệ Trung Hoa – một nền văn học trù phú, đồ sộ, đã chuyển tải những tư tưởng thi ca tuyệt đỉnh của nhân loại:
“Kinh Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa, bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
Dịch trải rộng con đường cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn sinh; Thi là tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm của tình người và lòng người, được mang ra để lịch nghiệm cuộc lữ mà Dịch đã phơi bày ra đó.
Âm hưởng của Thi là tiếng vang của nhịp bước trong cuộc lữ.”
(Tựa “Tô Đông Pha – Những Phương Trời Viễn Mộng”, tr. 9, Tuệ Sỹ)
Các thi hào thi bá thời Đường hay Tống Nho lúc bấy giờ dường như là thi hữu với Thầy. Đào Tiềm, Dã Đảo, Khuất Nguyên, Lý Bạch, hay người gần gũi nhất – Tô Đông Pha – chẳng xa lạ gì. Do vậy, tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn hay Ngục Trung Mị Ngữ đã ra đời trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương nhiều xáo động, với lòng từ trải rộng không phân biệt, lời thơ cao vút dãy Trường Sơn đến tận Thái Bình Dương mênh mông bát ngát non nước Việt:
“Còn nghe được tiếng ve sầu
Còn yêu đốm lửa đêm sâu bập bùng
Quê người trên đỉnh Trường Sơn
Cho ta gửi một nỗi hờn thiên thu.”
(Giấc mơ Trường sơn – Tuệ Sỹ, nxb Đà Nẵng 2024)
Thời gian trôi như dòng nước, xuôi mãi đến chân trời vô biên. Chuỗi thời gian ấy, Thầy đi tìm lại cho chính mình những nốt nhạc trắng đen, cung bậc thăng trầm, lỗi nhịp theo từng bước chân Thiên Lý Độc Hành:
“Ta đi dẫm nắng bên đèo
Nghe đau hồn cỏ rũ theo bóng chiều
Nguyên sơ là dáng yêu kiều
Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ
Còn đây góc núi trơ vơ
Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao.”
(Thiên Lý Độc Hành – Tuệ Sỹ, nxb Đà Nẵng 2021)
Còn những áng văn chương thâm thúy tuyệt cùng là hành trang luôn được mang vác trên vai Thầy, băng qua bao lãnh vực triết lý tư tưởng nhân sinh hay nền tảng Phật pháp – làm rung động con tim, khối óc của người thừa sự.
Thầy đã mô tả tâm trạng của vua A Xà Thế trong đêm đến thăm đức Thế Tôn và hàng Thánh chúng 1250 vị trong khu rừng. Nhưng sao lại quá im lặng, thanh tịnh, với một số đông người như thế?
Vua A Xà Thế – một thời hung tợn – chợt thấy lòng run sợ, lông tóc dựng đứng. Ông sợ điều gì? Không sợ binh hùng tướng mạnh, không chùn bước trước rừng gươm giáo, mà lại run sợ trước sự cô liêu, u tịch của khu vườn:
“… Cõi vô ngôn ấy là gì, ở đâu?
Đó là tiếng vọng trên ân vực tuyệt đối, cao vút lên từ vực sâu thẳm trong tận cùng đáy sâu của những tâm hồng tha thiết với sự sống, lẽ sống.
Đó là sự im lặng sấm sét của Tu Bồ Đề, thản nhiên ngồi khâu áo trong hang đá, trong không gian rực sáng và ngập tràn tiếng hát thiên thần.
Đó là tiếng rống sư tử của bậc Đại Trí Văn Thù, khi khám phá cảnh giới tịch mặc, vô ngôn trong căn nhà trống của Duy Ma Cật.
Tiếng vọng ấy không thể nghe được bằng tai, cũng không thể suy được bằng lý.”
(Huyền Thoại Duy Ma Cật, tr. 12 – Tựa, Tuệ Sỹ)
4. Dung Nghi Đĩnh Đạc Của Một Bậc Thầy Qua Các Chốn Già Lam
Các thập niên bảy mươi, tám mươi, cho đến những ngày cuối đời, Thầy luôn sát cánh với anh em học Tăng để giảng dạy và làm việc. Thầy giảng dạy và làm việc không biết mệt mỏi.
Có những chiều hôm gió biển nhẹ mát trên đồi Trại Thủy – Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang – Thầy trò rảo bước lên tháp sắt, qua Kim Thân Phật Tổ. Thầy luôn kể chuyện vui và thân tình. Trong những giây phút ấy, Thầy như là người bạn thân chứ chẳng phải là vị Giám học của Phật học viện.
Đêm đêm, Thầy đi canh thiền trên dãy nhà Tăng sinh viên. Dù mưa hay nắng, Thầy không bỏ bữa nào. Sáng sớm, vào khoảng 5 giờ, Thầy trò ngồi quanh bếp lửa dưới nhà bếp nấu nước sôi. Cô Bảy lo thức ăn buổi sáng cho quý Thầy. Một bình trà, ly cà phê trông thật đơn sơ nhưng thấm đậm tình đạo vị.
Cuộc đời Thầy sống thật đơn giản, không cầu kỳ, không xa hoa, dù được Ôn Đỗng Minh chăm lo hết mình. Ôn Chí Tín – Trụ trì Chùa Long Sơn – thỉnh thoảng mời Thầy qua để cùng dùng cơm nơi nhà thiền. Ôn Trí Nghiêm, Ôn Đỗng Minh – Thầy xem như Sư phụ, các bậc tôn túc trong chốn thiền môn.
Những buổi trưa qua đường, thời gian An cư, lúc nào Thầy cũng đi sớm và ngồi đó đợi Ôn Thiện Siêu từ cốc xuống, Ôn Đỗng Minh, Ôn Chí Tín từ chùa tỉnh hội qua. Chừng ấy Thầy có mặt, cũng đủ cho anh em học Tăng kính phục – chưa nói đến một trời thi ca, một biển Phật Pháp, một núi văn học Đông Tây hiện hữu trong Thầy – tiêu biểu như câu thơ “Đằng Vương các” của Vương Bột:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.”
Tô Đông Pha – những phương trời viễn mộng:
“Trăng thanh cắm trên kia vùng sa mạc,
Trời vũ lâm in mộng triệu sông hồ.”
Tuệ Trung Thượng Sĩ, phóng cuồng ca:
“Trời đất liếc trông chừ, ôi mênh mang
Chống gậy rong chơi chừ, phương ngoại phương,
Dạo chốn cao cao chừ, mây đỉnh núi
Hoặc nơi sâu sâu chừ, nước trùng dương
Hễ đói thì ăn chừ, cơm mười phương góp
Hễ mệt thì ngủ chừ, nơi chẳng quê hương
Lúc cảm hứng chừ, thổi sáo không lỗ
Lúc thanh tịnh chừ, đốt giải thoát hương.”
Hay như một Tuệ Sỹ của tự thân:
“Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
Trăng nằm xuống ruỗi dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã động chân trời.”
Sau khi Viện Cao đẳng Phật học đóng cửa (1975), Thầy về ẩn cư tại Vạn Giã làm rẫy, rồi lại lang thang “… in mộng triệu sông hồ” – từ núi rừng miền Trung đến miền Nam sông nước.
“Ngã cư không xứ nhất trùng thiên
Ngã giới hư vô chân cá thiền
Vô vật, vô nhơn, vô thậm sự
Tọa quan thiên nữ tán hoa miên.”
Tạm dịch:
Mịt mùng như thể giữa tầng mây
Trống không, quả thật cõi Thiền đây
Không vật, không ai, người vô sự
Ngồi xem thiên nữ rải hoa bay.
(Ngục trung mỵ ngữ, Tuệ Sỹ, nxb Đà Nẵng 2024)
Năm 1980 thầy được “Ôn Già Lam” bảo lãnh về ở với Ôn tại tu viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn. Thầy lại tiếp tục dịch Đại Tạng Kinh, viết sách, dạy học cho lớp Cao cấp học Tăng lúc bấy giờ. Rồi qua Vạn Hạnh, cùng làm việc với Thầy Lê Mạnh Thát từ năm 1980–1984.
Đến những năm tháng cuối đời, Thầy kêu gọi chư Tăng Ni ngồi lại với nhau để dịch Đại Tạng Kinh, để đền ơn chư Phật, tưởng nhớ công hạnh của chư vị Lịch đại Tổ sư, để trả ơn cho đàn na tín thí.
Mặc dù công chưa viên, quả chưa mãn, nhưng vì thuận thế vô thường, Thầy đã ly dục tịch tịnh vào ngày 24 tháng 11 năm 2023, bằng tâm nguyện:
“Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.”
Hôm nay là Đại tường của Thầy, con viết đôi dòng để tưởng niệm về Thầy – một thời còn sinh tiền – mà âm ba, hình ảnh, dáng dấp, phong độ của Thầy như một bậc xuất trần thượng sĩ, ở không dính mắc, đi không vướng bận, thênh thang như gió nội mây ngàn – mà trong con, không hề phôi pha.
Kính lạy Giác linh Thầy phân thân hóa độ, lợi lạc quần sanh.
Chùa Phật Đà, San Diego, California – USA
Ngày 20 tháng 06 năm 2025
Nguyên Siêu
*Nguồn: HƯƠNG TÍCH – PHẬT HỌC LUẬN TẬP 12 – 10/2025