Phạm Đình Bá: Từ việc xây dựng điện hạt nhân ở Canada, nghĩ về Việt Nam*

Tác giả: Phạm Đình Bá
Nhà máy điện hạt nhân Bruce nằm trên bờ phía đông của Hồ Huron ở Ontario, Canada

Việt Nam đã chính thức quay lại chương trình điện hạt nhân với mục tiêu đưa nhà máy đầu tiên vào vận hành trong giai đoạn khoảng 2030–2035, trọng tâm là hai dự án Ninh Thuận 1 và 2. Các dự án này được tích hợp vào quy hoạch điện quốc gia như một phần của chiến lược bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn và giảm phụ thuộc vào than, trong bối cảnh nhu cầu điện tăng nhanh. (1)

Về công nghệ, định hướng chính hiện nay là lò phản ứng nước nhẹ thế hệ III+ VVER‑1200 của Nga, với công suất trên 1.000 MW mỗi tổ máy, tuổi thọ thiết kế dài, chu kỳ nạp nhiên liệu thưa và hệ thống an toàn chủ động – thụ động được nâng cấp sau Fukushima. Song song, Việt Nam duy trì kênh tiếp xúc với nhiều đối tác khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Hoa Kỳ để so sánh, tham khảo thêm các công nghệ lò lớn tiên tiến và xây dựng chuỗi cung ứng – tài chính đa dạng. (2)

Các nhà máy sử dụng lò phản ứng nước nhẹ thế hệ III+ VVER‑1200 của Nga thường có chi phí đầu tư khoảng 4–6 tỷ USD cho mỗi tổ 1.200 MW, tùy điều kiện địa chất, chi phí vốn và mức nội địa hóa; các dự án “chuẩn” tại Nga và một số nước như Belarus, Bangladesh thường được ước tính trong khung này. Thời gian xây dựng một tổ máy VVER‑1200 về mặt thiết kế là khoảng 5–7 năm từ khi khởi công đến hòa lưới thương mại nếu thủ tục, tài chính và chuỗi cung ứng diễn ra thuận lợi, nhưng nhiều dự án trên thế giới thực tế kéo dài tới 7–10 năm do chậm tiến độ, thay đổi thiết kế hoặc khó khăn tài chính. (3)

Tổng thể, riêng hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 – trụ cột của chính sách điện hạt nhân hiện nay – được ước tính cần ít nhất khoảng 22 tỷ USD, tương đương khoảng 5% GDP Việt Nam, với giả định tổng công suất khoảng 4.000 MW và suất đầu tư khoảng 5.500 USD/kW. Trong quy hoạch rộng hơn, điện hạt nhân nằm trong gói đầu tư 136 tỷ USD cho toàn hệ thống điện đến 2030, nơi hạt nhân chỉ là một phần nhưng là cấu phần vốn rất lớn trên mỗi MW so với các nguồn khác. (4)

Tháng 4/2025, quy hoạch điện (PDP8 sửa đổi) đặt mục tiêu đưa Ninh Thuận 1 & 2 vào vận hành giai đoạn 2030–2035 với công suất 4.000–6.400 MW, sau đó bổ sung thêm khoảng 8.000 MW hạt nhân đến năm 2050. (5)

Nhà nước đã giao EVN làm chủ đầu tư Ninh Thuận 1, PVN làm chủ đầu tư Ninh Thuận 2, và đang thúc đẩy ký kết các thỏa thuận với Nga và các đối tác khác để có thể khởi công ngay sau khi hoàn tất cơ chế đặc thù, giải phóng mặt bằng và khung pháp lý an toàn hạt nhân. Theo chỉ đạo, mục tiêu là khởi công trong nửa cuối thập niên 2020, hoàn thành ít nhất một nhà máy vào khoảng 2030–2031 và hoàn tất cả hai nhà máy trước 2035, song song với việc đầu tư lưới truyền tải 500 kV và các hạng mục hỗ trợ khác (riêng đường dây – trạm liên quan đã ước trên 900 triệu USD). (6)

Ở nơi tôi ở, SMR ở Ontario là lò BWRX‑300 do GE Hitachi thiết kế, thuộc loại “Small Modular Reactor” công suất khoảng 300 MW, dùng công nghệ lò nước sôi làm mát bằng nước, lưu thông tự nhiên, với các hệ thống an toàn thụ động đã đơn giản hóa so với lò lớn truyền thống. “Modular” nghĩa là thiết kế chuẩn hóa, có thể chế tạo theo dạng module trong nhà máy rồi mang đến lắp ráp tại công trường, nhằm rút ngắn thời gian xây dựng và giảm rủi ro thi công so với nhà máy hạt nhân quy mô lớn. (7)

Ontario là “cái nôi” của điện hạt nhân Canada, với đội hình chính là các lò nước nặng áp lực CANDU xây từ thập niên 1970 ở ba nơi, hiện cung cấp khoảng một nửa sản lượng điện của tỉnh. Khi các lò CANDU già hóa và nhu cầu điện sạch tăng lên cho mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (net-zero) , tỉnh vừa kéo dài tuổi thọ CANDU, vừa tìm công nghệ mới; SMR BWRX‑300 trở thành “làn sóng hạt nhân thế hệ tiếp theo”, bổ sung vào di sản CANDU thay vì thay thế hoàn toàn. (8)

Chính phủ Ontario và tập đoàn điện ở đây chọn BWRX‑300 sau quá trình so sánh với các thiết kế SMR khác, dựa trên các tiêu chí: tận dụng được kinh nghiệm vận hành lò nước nặng áp lực, thiết kế an toàn thụ động, khả năng tiêu chuẩn hóa và tiềm năng giảm chi phí theo chuỗi sản xuất hàng loạt. Tỉnh và chính phủ liên bang coi SMR là công cụ then chốt để bảo đảm nguồn điện nền không phát thải, hỗ trợ khử carbon ngành công nghiệp và đáp ứng mục tiêu lưới điện net‑zero 2035, nên đã cấp giấy phép xây dựng, cho phép tái sử dụng một phần đánh giá môi trường cũ, và xây dựng chiến lược SMR liên tỉnh ở bốn tỉnh (Ontario – Saskatchewan – Alberta – New Brunswick) để chia sẻ kinh nghiệm, rủi ro và chuỗi cung ứng. (9)

Từ giữa thập niên 2000, Việt Nam đã ấp ủ kế hoạch xây nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, được Quốc hội thông qua chủ trương năm 2009 nhưng đến 2016 phải dừng lại vì lo ngại vốn quá lớn, rủi ro an toàn sau sự cố Fukushima và áp lực nợ công. Sau vài năm “đóng băng”, bối cảnh lại thay đổi: nhu cầu điện tăng rất nhanh, cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 và áp lực giảm than buộc nhà nước phải tìm nguồn điện nền không phát thải; vì vậy từ cuối 2024, Quốc hội và Chính phủ bắt đầu khôi phục chương trình, đưa hạt nhân trở lại trong Quy hoạch điện sửa đổi với mục tiêu đưa Ninh Thuận 1 & 2 vào vận hành khoảng 2030–2035. (10) 

Tuy nhiên, câu hỏi lớn là một nước có thu nhập trung bình như Việt Nam có “kham nổi” một chương trình điện hạt nhân lớn đến đâu. Chỉ riêng hai nhà máy Ninh Thuận đã được ước tính cần ít nhất khoảng 22 tỷ USD (xấp xỉ 5% GDP), chưa kể chi phí lưới truyền tải, đào tạo nhân lực, xử lý chất thải và dự phòng rủi ro trễ tiến độ, đội vốn. Nếu dự án chậm 5–7 năm hoặc đội vốn thêm 30–50% – kịch bản không hiếm với điện hạt nhân – gánh nặng nợ công, tỷ giá và giá điện có thể rất lớn, chiếm chỗ của các khoản đầu tư khác như gió ngoài khơi, mặt trời, lưới thông minh, hay y tế – giáo dục. Vì vậy, ngay cả khi điện hạt nhân có logic về kỹ thuật và an ninh năng lượng, tính khả thi tài chính vẫn là bài toán rất căng với một nền kinh tế còn đang “chạy ăn từng bữa” về hạ tầng. (11)

Một vấn đề khác là niềm tin của người dân vào cách chính quyền quản lý rủi ro và minh bạch thông tin. Những năm gần đây, không ít vụ xả lũ thủy điện thiếu cảnh báo khiến vùng hạ du chìm trong nước, người dân thiệt hại tài sản, thậm chí mất mạng, nhưng việc giải trình, đền bù và rút kinh nghiệm nhiều khi diễn ra chậm chạp. Khi một công trình như thủy điện đã để lộ nhiều lỗ hổng về phối hợp, dự báo và trách nhiệm giải trình, người dân có lý do để đặt câu hỏi: với điện hạt nhân – nơi rủi ro ít xảy ra nhưng hậu quả cực lớn – liệu chính quyền hiện nay đã đủ chuẩn về an toàn, giám sát độc lập, kênh thông tin minh bạch, hay chưa. Năng lực kỹ thuật có thể mua và học, nhưng niềm tin xã hội là thứ khó “nhập khẩu” nếu cách điều hành vẫn nặng tính áp đặt và xin–cho. (12)

Câu chuyện Ontario là một tấm gương đáng suy ngẫm. Ở đó, một tỉnh giàu, có kinh nghiệm hàng chục năm với CANDU, thể chế giám sát độc lập, hệ thống pháp lý chặt chẽ và xã hội dân sự năng động, mà dự án 4 lò SMR vẫn bị tranh luận gay gắt vì chi phí đội lên đến gần 15 tỷ đô Mỹ và rủi ro chậm tiến độ. Họ có quy trình tham vấn công khai, đánh giá tác động môi trường, cơ quan an toàn hạt nhân hoàn toàn độc lập với chủ đầu tư, và báo chí – học giả tự do mổ xẻ, chất vấn từng bước. Ngay cả vậy, việc “đặt cược lớn” vào SMR vẫn bị coi là mạo hiểm. So với Ontario, Việt Nam yếu hơn nhiều về năng lực kỹ thuật, quản trị, lẫn cơ chế giám sát bên ngoài nhà nước – và đó chính là lý do cần thận trọng gấp bội. (13)

Vì tất cả các lý do đó, sự cảnh giác và tham gia của người dân không phải là “gây khó” cho nhà nước, mà là điều kiện để bất kỳ chính sách điện hạt nhân nào cũng có cơ hội thành công. Người dân có quyền và có trách nhiệm đặt câu hỏi: vì sao chọn công nghệ này, vì sao phải làm bây giờ, chi phí cụ thể là bao nhiêu, ai chịu rủi ro nếu trễ tiến độ hay xảy ra sự cố, cơ chế bồi thường ra sao.

Những tiếng nói từ cộng đồng khoa học độc lập, báo chí, các nhóm dân sự – dù còn hạn chế – nếu kiên trì góp ý, phản biện, yêu cầu công khai thông tin sẽ giúp giảm khả năng “làm ẩu”, “làm kín” trong một lĩnh vực không cho phép sai lầm lớn. Điện hạt nhân có thể là một phần của tương lai năng lượng Việt Nam, nhưng chỉ nên được xây dựng trên nền tảng minh bạch, trách nhiệm giải trình và đối thoại thật sự với chính những người sẽ sống cạnh các nhà máy ấy.

Phạm Đình Bá

*Tựa do Tạp chí Thế Kỷ Mới đặt.

……………….

Tham khảo:

  1. https://www.nucnet.org/news/vietnam-approves-updated-energy-plan-that-includes-nuclear-for-first-time-4-4-2025
  2. https://dantri.com.vn/khoa-hoc/2-cong-nghe-duoc-dat-len-ban-can-cho-dien-hat-nhan-viet-nam-20250714171247733.htm 
  3. https://world-nuclear.org/information-library/country-profiles/countries-o-s/russia-nuclear-power
  4. https://theinvestor.vn/vietnams-nuclear-power-project-needs-least-22-bln-investment-d14473.html
  5. https://www.nuclearbusiness-platform.com/media/insights/vietnam-readiness-for-nuclear
  6. https://www.nortonrosefulbright.com/en/knowledge/publications/1d041eb0/vietnam-power-sector-snapshot
  7. https://www.cnsc-ccsn.gc.ca/eng/resources/status-of-new-nuclear-projects/darlington/
  8. https://www.mltaikins.com/insights/powering-the-future-canadas-leadership-in-nuclear-energy-small-modular-reactors/
  9. https://www.world-nuclear-news.org/Articles/OPG-chooses-BWRX-300-SMR-for-Darlington-new-build
  10. https://theinvestor.vn/vietnams-nuclear-power-project-needs-least-22-bln-investment-d14473.html 
  11. https://vietnamnews.vn/society/1688628/ninh-thuan-nuclear-power-project-will-bring-significant-benefits-despite-high-costs.html
  12. https://vietnamnews.vn/economy/1716817/viet-nam-eyes-us-18-billion-a-year-for-power-plan-through-2035.html
  13. https://world-nuclear-news.org/articles/what-is-the-budget-for-canadas-first-smr-project

Có thể bạn cũng quan tâm