Trần Hữu Thục: Trần Mộng Tú: từ thơ tình đến thơ trong tay áo

Tác giả: Trần Hữu Thục

Thơ Trần Mộng Tú đa dạng (thơ quê hương, thơ thế sự, thơ tôn giáo, thơ thân phận, thơ thiền…), nhưng nổi bật nhất vẫn là thơ tình.

Tôi thích đọc thơ tình Trần Mộng Tú, vì mỗi khi đọc, tôi cảm thấy mình trẻ lại, đầy sức sống, sẵn sàng…yêu, dù không biết phải yêu ai.

Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú là không-thời (timeless), không-tuổi (ageless).

Người làm thơ không-tuổi: chị làm thơ tình trải dài qua nhiều lứa tuổi, từ lúc còn trẻ còn tươi còn non còn nồng còn vụng dại và tiếp tục làm thơ tình mãi cho đến…không biết khi nào. “Tuổi” bị Trần Mộng Tú ngang xương loại ra khỏi sân chơi:

Trái tim em là quả không bao giờ chín

(Đừng hỏi em)

Người đọc thơ không-tuổi: người đọc thơ Trần Mộng Tú cũng thế, thuộc mọi lứa tuổi: mới lớn, dậy thì, đã lập gia đình, đã trung niên, đã quá trung niên và đã cổ lai hy và hơn thế. Trẻ, đọc say sưa, có gia đình, cũng đọc say sưa, già, cũng say sưa đọc. Đọc thơ tình thường làm mình trẻ lại, đọc thơ tình Trần Mộng Tú, lại càng trẻ hơn nữa, tình hơn nữa, thanh xuân hơn nữa. Tôi biết, có người đọc và mê thơ Trần Mộng Tú và mê luôn…tác giả.

Bản thân bài thơ lại càng không-tuổi. Thơ tình Trần Mộng Tú cách đây 50 năm, 40 năm, 30 năm, 20 năm, 10 năm và cho đến bây giờ, lúc nào cũng vậy, khi thì lãng đãng, chấp chới, buông thả, khi thì nồng nàn, say đắm, khi thì tham lam, níu kéo, dỗi hờn, táo bạo, liều lĩnh và có khi thì…erotique.

Tất cả chỉ vì, chữ tình xưa nay, trong bản chất, nằm ngoài sự chi phối của thời gian. Tình yêu – cũng như vũ trụ – tồn tại bằng lực hấp dẫn: hút lẫn nhau, dính chặt vào nhau.  Trong thơ tình Trần Mộng Tú, “em” cuống quýt anh, “anh” đan bện vào “em”. Chữ “em” thì mềm mại, nũng nịu, mời gọi; đó nhất định là nhà thơ, nhưng còn chữ “anh” thì là…ai? Là một ai đó cụ thể, hay chỉ là một khái niệm, một hình bóng, một biểu tượng. Chịu.

Trần Mộng Tú có khả năng “biến” bất cứ bất cứ khung cảnh nào (dòng sông, mây trôi, nắng chiếu, trăng soi, trong phòng ngủ, giữa lòng xa lộ, trong rừng, trên cầu…) hay bất cứ sự vật gì (đồ ăn, chăn chiếu, trái cây, đất đá, áo quần…), hay có khi chỉ là một cái “mầm hoa huệ” (bài “Hoa huệ đỏ”) ai đó từ phương xa gửi tặng gửi tặng, hay một” chùm nho” (Chùm nho tình yêu) nằm trên bàn, thành những hình tượng ướt đẫm tình yêu.

Ngày hạ chí” chẳng hạn. Ngày dài nhất và nóng nhất trong năm này biến thành một ngày hẹn hò độc đáo:

Ngày hạ chí thân thể anh như đuốc
Anh kéo mặt trời xuống thắp sáng em
Những tia lửa rắc cả vào trong áo
Ngày tham lam không nhường chỗ cho đêm

(Ngày hạ chí)

Khiếp! Tình vừa nồng vừa cháy.

Thú vị nhất là, nhũng bộ phận trên cơ thể: tóc, tay, môi, mắt, má, cổ, gáy, tai xương vai, vết bớt, hơi thở…hay ngay cả bên trong cơ thể như tĩnh mạch, phổi, máu, tim…cũng là những chất liệu được chị tạo ra thơ. Xin ghi lại một số câu điển hình:

Cho em hôn lên những sợi tóc bạc của anh
để em đổi trăm năm cho một ngày hạnh phúc
(Thornbird)

Em cúi xuống cho anh hôn lên gáy
kỷ niệm gầy như những chiếc xương vai
 (Ngọn nến muộn màng)

Tình yêu như vết bớt trên lưng… (Thế kỷ),

Anh trốn vào trong em
len qua từng tĩnh mạch
theo máu ghé vào tim
em, chao đi một nhịp

Anh hòa tan trong máu
như suối chia muôn nơi
dòng nào lạc qua phổi
cho em thở bồi hồi…
 (Hồn em giờ rất lạ)

“Ngực em”, bộ phận “nhạy cảm” của phụ nữ, xuất hiện một cách hồn nhiên và thơ mộng:

Ngực em chỉ là căn nhà cho mướn
tình yêu là khách trọ của trái tim… 
(Ðừng hỏi em)

Tôi xa người như xa mùa xuân
ngực tôi còn đọng chút hương trầm
(Cả một dòng sông đứng lại chờ)

Trái tim anh em giấu vào trong ngực
để cùng em thức dậy trước bình minh (Giấu)

bàn tay anh em giấu vào trong áo
ngực rất hiền nở vội một đóa hoa

Mấy câu sau đây, được lập đi lập lại vài lần trong các khổ thơ mà lần nào đọc lên, tôi cũng cảm thấy bối rối:

Đã lâu quá anh không về gõ cửa
lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực

(Gọi anh mùa xuân)

Táo bạo hơn, Trần Mộng Tú còn sử dụng lối nói ẩn dụ khá tân kỳ bằng những từ ngữ tượng hình, kích thích trí tưởng tượng, tạo thành thứ ngôn ngữ đa nghĩa như “tháo bỏ”, “khỏa thân”, “cởi áo”, “mở khuy” trong bài thơ khá lạ, “Trong suốt”:

Tôi bắt đầu tháo bỏ chàng
Như tháo đôi hoa ra khỏi tai

Hai tai đã khỏa thân

Chàng bảo hãy cởi anh ra khỏi em
Như cởi áo
Tôi mở từng chiếc khuy
Tôi treo chàng lên mắc…

Không nắm được kỹ thuật ẩn dụ, có thể có độc giả sẽ giật mình…tưởng bở! Hóa ra:

Tôi đi rót cốc nước
Nâng chiếc ly lên nhìn
thủy tinh
trong suốt
ngửa mặt uống cạn chàng
ném chiếc ly qua cửa
tình bay vào không gian

Chàng là ai? Chịu.

Trên kia, tôi có nói nhà thơ có khả năng “biến” bất cứ thứ gì thành thơ. Thực ra, nhà thơ chẳng hề “biến”. Chị chỉ làm một động tác đơn giản: gõ/viết chữ thẳng vào cốt lõi của “tình yêu”. Đã yêu là yêu tất. Đẹp, yêu đã rồi mà mộc mạc, quê mùa vơi “bàn tay nông dân” vẫn cứ yêu. Xa, yêu mà gần cũng yêu. Trong, yêu mà ngoài cũng yêu. Trẻ, yêu mà già cũng yêu. Cùng ngôn ngữ, yêu mà khác ngôn ngữ vẫn yêu. Thậm chí, ghét mà vẫn cứ yêu. Đúng là, nói có hơi thừa, tình là không biên giới!

                                                                      *


          Tập thơ mới nhất của Trần Mộng Tú vừa xuất hiện trong mùa hè này (2025), Thơ trong tay áo, song ngữ Việt-Anh, là một tập thơ mỏng, rất mỏng, chưa tới 50 trang, với chỉ có 31 bài thơ. Hơn một nửa là “bốn câu năm chữ”, kế đó là “sáu tám” và điểm thêm vài bài “bốn câu bảy chữ”. Hầu hết đều ngắn, mỗi bài một khổ. Trông như những “miếng thơ”, nói theo ngôn ngữ của chị. Mỗi miếng diễn đạt một ý tưởng nhân sinh cô đọng, thể hiện qua một vài hình ảnh được chọn lựa kỹ càng, sắc nét. Đúng là “thơ trong tay áo”.  Thơ trong tay áo ám chỉ sự thu tóm, dàn xếp mọi sự của đời vào trong góc nhỏ của bản thân: tay áo mình.  Ngày xưa, nhà thơ “phất tay áo”, tung thơ ra khắp thế gian, bây giờ, chị cất giữ lại “trong tay áo” để tự thưởng thức dần dần, một mình:

Tôi giấu thơ vào trong tay áo
Thỉnh thoảng mang ra nếm một dòng.

Tập thơ mở đầu với bốn bài; cả bốn bài đều mang lại những hình ảnh tiêu cực. Bài thơ đầu, “Gió mùa”, ẩn dấu một tiếng thở dài ngậm ngùi tiếc rẻ:

Nhờ gió mùa mang hộ
mái tóc xanh qua hồ
Gió vụng về đánh rớt
rơi trắng cả trang thơ

“Xanh” và “trắng” là hai nét đặc trưng chỉ màu “tóc” của hai thời kỳ, được nhà thơ khéo léo muợn cái vụng về của cơn gió để mô tả sự dịch chuyển tất yếu của đời người.

Ba bài thơ kế tiếp đều đề cập đến mùa Xuân, mỗi bài một khung cảnh, khung cảnh nào cũng không vui.

“Hoa Tết” là một nỗi ngờ vực khó hiểu, cái gì xuất hiện cũng mang vẻ “hình như”, kể cả cành hoa mai, biểu trưng cho Tết:

Hình như cành hoa mai
nở một chùm nước mắt

“Đêm ba mươi”, giao thừa, thay vì là đêm đoàn tụ, hóa ra, là đêm cô độc lạnh lùng:

Đập tay vào cánh cửa
Gọi đêm ba mươi xưa
Cánh cửa im và lạnh

Mùa Xuân, không có những “mầm xanh mọc trên cành khô run rẩy vườn đêm” (Mùa xuân pháo đỏ), mà là “Khách lạ”:

Xuân sắp về tới nơi

Xuân cũ mất hẳn rồi
Đây là người khách lạ

Những dòng thơ khác thường này báo hiệu một nội dung khác thường. Nghe bi lụy, phiền não. Tưởng như nhà thơ gặp phải biến cố đau buồn nào trong cuộc sống. Không đâu!

Những dòng thơ với nội dung từa tựa như thế này đã từng xuất hiện đâu đó trước đây trong thơ chị:

Cúi xuống nhìn thân thể
Mảnh hình hài như có như không
Tôi đi đâu
Tôi về đâu

(Hunting house)

Một mai tôi chết rồi sao nữa
Mây vẫn bay và nước vẫn xuôi

Giải mây trôi)

Nhà thơ sử dụng đại từ “tôi” để diễn tả những suy gẫm của mình – không phải về tình yêu hay quê hương – mà về định mệnh, về hư vô, về vô thường, về lẽ tử sinh. Nghe xao xuyến, khắc khoải, đượm mùi triết lý. Đó là sự trở về với bản thân, đúng hơn, trở về với thân phận con người. Tương tự, nhiều trong số những bài thơ của “Thơ trong tay áo” là thơ của phận người, về phận người và cho phận người. Tôi gọi là “thơ thân phận”.

Cũng sử dụng đại từ “tôi”, “Trong gương” nói về tác động của dòng thời gian trên bản thân một cách cụ thể:

Tôi nhìn tôi trong gương
hai tôi hay là một?
…Thời gian là giám khảo?

“Tôi” không những khác, mà đã người khác.

Nhưng đa phần, Trần Mộng Tú sử dụng cách nói phiếm chỉ, không có đại từ.

Cũng nói về sợi tóc và sự thay đổi của nó như một cách hình dung nỗi đời biến thiên (Gió mùa), nhà thơ dùng hình ảnh mâu thuẫn giữa mưa và nắng:

Những hạt mưa lên tiếng
Gọi mãi sợi tóc về
Tóc đã đi theo nắng

(Mưa)

Hoặc trong một ngữ cảnh khác hình tượng hơn:

Sáng nay ra phố gội đầu
Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa

 (Lục bát đôi dòng)

Ở một số bài, thay vì “tôi”, Trần Mộng Tú sử dụng chữ “mình” hay chữ “Ta”, để chỉ sự bào mòn của thời gian trên hành trình sống của bản thân: biến dạng.

Mình nhìn mình trong gương
Thấy một người vừa quen vừa lạ
Tiếng ai gọi, Tú Ơi
(Trong gương) [1]

Cũng thế, trong “Khung cửa sổ”, nhà thơ đi thẳng vào vấn nạn nhân sinh muôn thuở với câu hỏi: Ta là ai?

Nhìn ra vách đá bốn mùa
bức tranh mưa nắng sáng trưa mỗi ngày
lá hoa chim chóc đổi thay
Riêng Ta có phải Ta ngày cũ không?

“Nằm mơ” cho ta một cái nhìn sòng phẳng về lẽ tất yếu của cuộc nhân sinh.Trần Mộng Tú, ở đây, không cần nói xa nói gần, nói bóng nói bẩy, mà cụ thể, gọi đích danh hiện tượng lão hóa:

Trong mơ thấy mình trẻ
thức dậy thấy mình già
Muốn nằm xuống mơ lại
Trên gối tóc trắng phau

Không những thế, Trần Mộng Tú còn đi xa hơn, trực diện với cái chết:

Có người nói khi nằm trong đất
Da thịt tan nhưng tóc vẫn còn
Em sẽ giấu thơ vào trong tóc
Cho người cải táng được tay thơm

(Tay thơm)

Chết mà vẫn cứ lãng mạn như thường.

Sống, làm thơ. Chết, giấu thơ.

                                                            *

Nhưng Thơ trong tay áo không chỉ thế. Vẫn còn đeo đẳng chữ “tình”. Tình không bao giờ bỏ chị. Chị cũng không bao giờ bỏ tình.  Nhưng tình ở đây mang vóc dáng khác. Trước hết, đại từ “em”, và nhất là đại từ “anh”, xuất hiện khá hiếm, gần như không đáng kể. Mà nếu có, chúng cũng mang hơi hướm khác.

Ờ thì có giọt đắng hơn
Em nghiêng tách xuống rót buồn sang anh (Cà phê)

Ngôn ngữ và hơi thơ, tuy vẫn tình, nhưng nghe ra không sôi nổi, táo bạo, cuốn hút, tình tứ và da diết như ngày xưa.

Thôi thì pha cho loãng ra
Chút ngọt chút đắng hai ta chia đều (Cà-phê sáng)

Đọc lên nghe rất tình cảm, nhưng là một thứ tình cảm dịu dàng, đầm ấm, chia xẻ, vương vướng chút bùi ngùi. Ở một bài khác, nhà thơ nói đến tình yêu như quan sát một sự vật khách quan nào đó ở bên ngoài. Đúng hơn, đó là một cách nhìn, một cách mô tả về quá trình phát triển và dừng lại của cái được gọi là “ái tình”:

Mùa Xuân tình mới bắt đầu
Mùa Hạ rám cánh con sâu ái tình
Tưởng rằng Thu sẽ hồi sinh
Mùa Đông ập tới ái tình đóng băng

(Đổi giờ)

Cũng thế, bài dưới đây cũng là thơ tình, nghe bâng khuâng, nhưng đọc kỹ, ta sẽ thấy chủ yếu là một mô tả hay một diễn giải về tình yêu. Nó gợi nên ý tưởng, nhưng không nhằm đánh thức cảm xúc:

Áo khăn về gọi mùa Đông
Tình yêu gọi ngực từ trăm năm về
Ngực trăm năm đã bỏ đi
Áo khăn Tình ấy còn gì chưa phai

(Áo khăn)

Cũng “ngực” như thuở xưa, nhưng không phải “lồng ngực em” (Gọi anh mùa xuân) trên kia; như hai chữ “áo khăn”, “ngực” ở đây chỉ là cách nói hoán dụ, lấy bộ phận để tượng trưng cho một toàn thể là “người tình”, trong một cuộc tình nửa đường đứt gánh.

Để nhìn thấy sữ khác biệt giữa hai thứ “tình”, ta thử so sánh bài thơ sau đây, Mặt trời, với một đoạn trong Ngày hạ chí, bài thơ vừa nhắc ở trên:

Mặt trời gay gắt quá
Nên không soi rõ em
Đốm lửa trong mắt anh
Một đời em soi suốt

(Mặt trời)

Ngày hạ chí như có ngàn nến thắp
soi buổi chiều trong suốt hồn em
anh đứng đó như mặt trời không tắt
tự nhóm than nung đỏ đời mình

 (Ngày hạ chí)

Hai mặt trời khác nhau, hai “em” cũng khác nhau. Tình yêu trong “Mặt trời” mạnh mẽ, bền vững nhưng thiếu cái nồng nàn, cháy bỏng và hấp dẫn của “Ngày hạ chí”.

Cuối cùng, hãy đọc bốn câu thơ sau đây, mà tôi cho là thấm thía nhất trong “Thơ trong tay áo”:

Môi khô ghé xuống má nhăn
nở tung một đóa vĩnh hằng cho nhau
Mắt trong mắt thấy bể dâu
nhặt ra một chút bể dâu pha trà
(Pha trà)

Thì vẫn môi, vẫn má, vẫn mắt, vẫn vân vân. Nhưng bây giờ, môi không mọng, má không hồng, mắt không trong. Nhìn nhau, người này đã nhìn thấy cái “vĩnh hằng”, cái “bể dâu” trong mắt người kia. Đây là thứ tình yêu đã được chưng cất qua thời gian, qua những thử thách của cuộc thăng trầm. Nó giống như bình rượu cất ủ lâu năm, cái nồng, cái cay, cái tươi, cái hăng không còn nữa. Hơi tình dần dà dịu lại. Nhưng đây không phải là nỗi tuyệt vọng, mà là sự nhìn nhận và chấp nhận cái lẽ bình thường của cuộc nhân sinh, cát bụi, theo cách nói của Trịnh Công Sơn. Uống một “cốc trà bể dâu” là thưởng thức mùi vị đậm đà của tình yêu miên man chảy dài theo dòng thời gian.

Đây là tình đôi lứa. Đôi lứa đó nhất định đã từng lãng đãng, chấp chới, buông thả, đã từng nồng nàn, say đắm, tham lam, đã từng níu kéo, dỗi hờn, táo bạo, liều lĩnh.  

Chỉ khác một điều, thương hải biến vi tang điền (biển xanh đã biến thành nương dâu).

Dâũ vậy, họ đã đi suốt, đi trọn, và tiếp tục đi cho đến mốc cuối của cuộc hành trình nhân sinh.

Không phụ bạc, không tan vỡ, không dang dở, không phôi pha.

Chỉ lửng lơ đâu đó một câu hỏi:

Tôi ở đâu mà tôi tới đây
Ngày xưa ai đứng ở chỗ này
Hạt sương Trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay

(“Bài thơ tháng 12”, trang bìa sau)

Trần Mộng Tú hỏi, hỏi chỉ để hỏi, mà không trả lời.

Tôi nhớ đến Trần Tử Ngang:

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế hạ.

Trần Trọng San dịch:

Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa cha
n.

Trần Hữu Thục

(9/2025)

[1] Bài này dẫn lại theo Khánh Minh:

https://damau.org/103916/tran-mong-tu-va-tay-ao-ky-ao

Có thể bạn cũng quan tâm