
35 năm sau khi ra đời (1990), “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, một lần nữa, được ghi thêm điểm trong “sự nghiệp” văn chương khiêm tốn của mình, nhờ những tranh cãi ồn ào trên báo chí trong nước. Mới thoạt trông, chúng mang vẻ văn chương, nhưng thực tế, chẳng hề văn-chương-y-như-nó-là, nếu không muốn nói là hoàn toàn phản-văn-chương. Dẫu vậy, nhân hiện tượng này, tôi tìm thấy một vài chi tiết lý thú liên hệ đến Bảo Ninh và tác phẩm của ông, đáng cho chúng ta suy gẫm.
Phải nói ngay, “Nỗi buồn chiến tranh” là một hiện tượng văn chương độc nhất vô nhị của Việt Nam (nếu không muốn nói là của cả thế giới): tiểu thuyết duy nhất, lại là tiểu thuyết đầu tay, được sáng tác từ trường viết văn của một người không-xem-mình-là-nhà-văn (đúng ra là người học trò viết văn), đùng một cái, xuất hiện và chiếm lĩnh ngôi vị hàng đầu, đẩy các tác phẩm của nhiều tên tuổi lớn, sừng sỏ của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam khác vào hàng…thứ yếu. Chẳng khác gì một phép lạ. Gọi là một may mắn, hay thậm chí một “tai nạn”, nghe cũng chẳng thấy trái tai. Một vinh dự văn chương hiếm hoi như thế này thường chỉ đến với nhà văn sau một quá trình làm việc lâu dài, “gian khổ” bằng sự đam mê viết lách, bằng sự đầu tư (tri thức và lao động), bằng thử thách, bằng sự trau dồi và bằng cả thất bại…; hay nếu không thì khởi điểm thành công phải được nối tiếp bằng những thành tựu lớn lao hơn, xuất sắc hơn về sau, cũng bằng đam mê, đầu tư và trau dồi. Bảo Ninh không nằm trong cả hai trường hợp. Toàn bộ sự nghiệp của ông – nếu xem đó là sự nghiệp – chỉ gói gọn trong một tập sách mỏng và chỉ một mà thôi! [1] Cứ thử so sánh với những cây bút trong Nhân Văn-Giai Phẩm, hay những nhà văn khác trong nước, ta sẽ thấy rõ hơn tính cách “bất thường” của hiện tượng này.
Trả lời cho câu hỏi “Người ta nói ông là một “nhà văn một tác phẩm”, ông thừa nhận điều này?” của tạp chí Tuổi Trẻ, [2] ông thẳng thắn, “Đúng thế. Tôi chơi với nhà văn, có những người bạn văn chương gần gũi, nhưng tôi không phải nhà văn. Tôi không phải là người của giới nhà văn. Tôi thuộc về giới cựu chiến binh.” Vậy tại sao ông viết? “Đói. Viết thì mới có tiền mà sống. Và vì tôi là cựu chiến binh. Không trải qua đời bộ đội thì chắc chắn tôi không bao giờ viết văn, không nghĩ đến chuyện trở thành nhà văn. Tôi trở thành nhà văn vì tôi là cựu chiến binh. Tôi viết vì mục đích kể chuyện thời mình, thời chiến. Nó không có mục đích văn học theo nghĩa kể những câu chuyện có tính nhân sinh rộng rãi.”
Bảo Ninh khởi đầu sự nghiệp của mình như một chuyện chẳng đặng đừng.
Nhà văn Nguyên Ngọc, thầy dạy viết văn của Bảo Ninh, cho biết:
“Một hôm tôi đến thăm cụ Hoàng Tuệ, ngồi nói chuyện khá lâu.(…) Bảo Ninh trở về, học đại học khoa Sinh, rồi làm việc ở Viện Sinh học một thời gian và có lần anh gây chuyện: Viện nuôi một đàn gà để làm thí nghiệm, anh nghịch cho chúng ăn thứ gì đó, chết tiệt cả đàn. Cụ Hoàng Tuệ hiểu: chiến tranh đã khiến con ông không thể còn bình thường, vết thương sâu trong tâm hồn anh đã rất nặng. (…) Ông nghĩ đến một phương cách may ra có thể chữa bệnh cho con được chăng. Ông hỏi tôi về Trường Viết văn Nguyễn Du. Rất tinh tế, ông tỏ ý muốn gửi Bảo Ninh vào trường, và cũng có ý gửi gắm cho tôi.” [3]
“Bệnh nhân” Bảo Ninh quả đã gặp được một Hoa Đà tái thế: “thầy thuốc” Nguyên Ngọc.
Bảo Ninh rất thành thật về mình khi đề cập đến chuyện này:
“Thời phổ thông, rồi những năm đi lính (1969 đến 1976), tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc trở thành nhà văn. (…) Tôi xuất ngũ năm 1976, và từ năm 1979 đến năm 1986 tôi làm lụng vất vả để nuôi sống bản thân và gia đình. (…) Năm 1986, tôi nghe theo lời khuyên của cha, nộp hồ sơ vào Trường Viết văn Nguyễn Du và học với hai tác giả có tư tưởng tiến bộ là Nguyên Ngọc và Hoàng Ngọc Hiến. Tôi bắt đầu viết văn từ năm 1987, lúc 35 tuổi, vào thời điểm Việt Nam không còn chiến tranh. (…) Tôi nhận ra rằng nếu tôi không tham gia chiến tranh và không là một người lính, tôi sẽ chọn một con đường khác và không trở thành một nhà văn.” [4]
Ba năm học viết văn đã mang lại một tác phẩm. Và thành công ngay. Từ trong bóng tối, người học trò – bệnh nhân Bảo Ninh bước vào văn đàn bằng hình ảnh của một nhà văn lớn, điều mà nhiều tài năng văn học xã hội chủ nghĩa (vốn đã được xem là lớn) khác, nằm mơ cả đời cùng chẳng bao giờ đạt được, dù ở chỗ khiêm tốn nhất, kể cả thầy dạy viết văn Nguyên Ngọc. Rất nhiều hình dung từ đẹp đẽ đã được gán cho Bảo Ninh: tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất của Việt Nam, tác phẩm văn học “đỉnh cao”, tác phẩm gây chấn động văn đàn…vân vân.
Tại sao “Nỗi buồn chiến tranh” trở thành một hiện tượng?
Tác phẩm ra đời đúng vào cái thời điểm mà nhà nước toàn trị Việt Nam cần một sự thay đổi lớn, toàn diện, để tiếp tục vai trò thống trị của họ sau những thất bại liên tục của mô thức cộng sản. “Đổi mới” chỉ là một cách nói tuyên truyền. Đúng ra, đó là từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Ngoài tuyên truyền, nhà nước cộng sản cần đến một công cụ lợi hại: văn chương. Đó là thời điểm xuất hiện bài tiểu luận nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu: “Lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa” (10/1987), qua đó, nhà văn này than thở:
– Các nhân vật tiểu thuyết của những nhà văn trong chế độ tự do, dù cho phải chịu đựng nỗi đau khổ dằn vặt, nhưng khi nào cũng thật là sang trọng.
– Nhà văn cộng sản Việt Nam (CSVN), từ trẻ đến già, đều được đảng chăm sóc, chăn dắt kỹ lưỡng.
– Khi viết, nhà văn CSVN quan tâm đầu tiên là lo việc che chắn và viết cho lãnh đạo văn nghệ đọc trước.
– Có nhà văn, đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia, vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái.
Những nhận định trông rất thẳng thắn nói trên tưởng xuất phát từ sự can đảm, dũng cảm của Nguyễn Minh Châu (như nhiều báo trong nước ca ngợi), hóa ra, cũng đã được đảng cho phép trước. Theo Trần Trung Đỉnh, “Ngọn gió đổi mới như một luồng sinh khí mới thức tỉnh toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam những năm sau Đại hội VI của Đảng. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với tâm hồn nghệ sĩ vừa nhạy cảm vừa nồng nhiệt đối với những chuyển biến của đất nước, bằng tấm lòng chân thành và bản tính trung thực, ông là một trong số ít nhà văn có những ý kiến đóng góp sớm nhất đối với Đảng về tình hình chung của văn học nước nhà.” [5] Một tài liệu khác cho biết, “Vào Tháng Mười Hai, 1986, đại hội đảng lần thứ VI đã đề xướng công cuộc đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội, trong đó có đổi mới văn nghệ. Ngày 17 Tháng Mười, 1987, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đã có cuộc gặp mặt với các văn nghệ sĩ, giữa những ngày cả nước, trong đó có giới văn học nghệ thuật, phấn khởi bắt tay vào công cuộc đổi mới. Tại cuộc gặp mặt, đồng chí tổng bí thư đã có lời phát biểu quan trọng, khuyên các văn nghệ sĩ phải tự cởi trói, và tự cứu mình trước khi trời cứu. Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một người được mời tham dự, ông đã chuẩn bị một bài phát biểu nhưng rồi do viêm họng nên không đọc được.” [6]
Đó cũng là trường hợp Bảo Ninh. Được phóng viên báo Tuổi Trẻ hỏi (xem chú thích 2), lý do gì dẫn ông tới chỗ ngồi viết“Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh cho biết:
“Đó là lúc bắt đầu Đổi mới, cảm thấy có thể viết được. Nếu không có Đổi mới thì cũng ngần ngại viết. Lúc đó có sự đổi mới của Đảng. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bảo cởi trói cho văn nghệ, viết gì thì viết, thì tôi viết, chứ không cũng ngại. Ông Phạm Chuyên lúc còn làm giám đốc Công an Hà Nội kể với tôi rằng người ta gửi rất nhiều thư từ về tôi cho ông. Riêng về ông Thiệp, ông Chuyên bảo có cả một núi thư. Lúc đó ông ấy nói với tôi: Công an chúng tôi cũng đổi mới chứ. Chúng tôi nhận những thư đó thì bảo với nhau sao những bài có tính phê bình như thế lại gửi lên công an. Chúng tôi trả lời họ là những chuyện như thế nên đăng báo về văn nghệ, chứ không nên chuyển cho công an.”
Chính vì thế, khoác cho Bảo Ninh cũng như Nguyễn Minh Châu nhãn hiệu nhà văn “phản kháng” là điều phong tặng hoàn toàn không có cơ sở. Nhất là điều này làm chìm đi những tiếng nói phản kháng chân chính khác. “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên chẳng hạn. Chính Bảo Ninh cũng thừa nhận như thế. Trong bài phỏng vấn nói trên của Tuổi Trẻ, khi được hỏi, có phải “Nỗi buồn chiến tranh”nổi tiếng là vì nước ngoài có xu hướng thích đọc những tiếng nói chống đối không, ông cho biết, “Đó không phải văn chương chống đối, đó là văn học nói thật. Một số nhà lý luận trong nước tạo cảm giác đó là văn học chống đối.” Bảo Ninh phân biệt giữa “nói thật” và “chống đối”. Thực ra, dưới chế độ toàn trị, “Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái,” theo Nguyễn Minh Châu. Rõ ràng là, “nói thật” chính là sự “chống đối” mà nhà nước sợ nhất. Nhân Văn – Giai Phẩm là trường hợp cụ thể.
Khi viết “Nỗi buồn chiến tranh” ông có bị gặp nhiều phiền phức với chính quyền không, Bảo Ninh dứt khoát: “Không. Đổi mới rồi mà.” Viết tác phẩm này có khó không? Bảo Ninh quả quyết, “Thật ra viết thật về cuộc chiến có gì là khó. Chỉ là không dám thôi.” [7]
Chỉ là không dám thôi!
Tôi quý trọng sự thành thật của nhà văn Bảo Ninh khi nói về mình.
Nhưng vẫn tự hỏi: không biết đảng có kiểm duyệt “Nỗi buồn chiến tranh” trước khi cho nó được chính thức xuất bản không? Nhất định có. Đảng cần một tác phẩm mang tính “phản biện” như thế để che giấu thất bại và phục vụ cho đường lối “quay xe” của mình. Những tranh cãi ồn ào trước đây và hiện nay về tác phẩm này (cả bênh lẫn chống) không nằm ngoài chiến lược này, theo tôi.
Trần Doãn Nho
…………………
[1] Sau này, Bảo Ninh có viết một số truyện ngắn, tôi chưa có dịp đọc, nhưng dường như không có gì nổi bật.
[2] Phỏng vấn Bảo Ninh
https://tuoitre.vn/bao-ninh-khong-song-doi-bo-doi-toi-khong-co-doi-viet-van-20230523115354965.htm
[3] https://vandoanviet.blogspot.com/2025/12/hau-bao-van-nghe-va-noi-buon-chien.html#more
[4] Bảo Ninh kể về việc đối mặt với chấn thương tâm lý ở Việt Nam
[5] Trần Trung Đỉnh, Nhà văn Nguyễn Minh Châu,
https://vanviet.info/van/nh-van-nguyen-minh-chu/
[6] Xem “Nguyễn Minh Châu – Người viết ‘lời ai điếu’ cho một thời ‘văn nghệ minh họa”
[7] Tuổi Trẻ, Phỏng vấn Bảo Ninh, bài đã dẫn.