1.
Trời Tây Ninh, cuối thu đầu đông, qua hơn một tuần, liên tục mưa sớm, mưa chiều… Hôm nay đã có dấu hiệu hưng hửng nắng. Cái nắng sớm mai, mềm dịu, man mác, chút gây gây lạnh. Đoàn chúng tôi từ bùng binh Gò Dầu, nơi chia Quốc lộ 22 thành hai ngã, một là Quốc lộ 22B, hướng lên thành phố Tây Ninh, và một là “đường Xuyên Á”, hướng về Bến Cầu, qua khẩu Mộc Bài, sang Ba Vét, Campuchia. Theo đường Xuyên Á chừng vài cây số, đến ngã 3 ấp Voi, chúng tôi rẽ trái, hướng về 3 xã cánh Tây: Phước Chỉ, Trà Cao, Bình Thạnh, nơi có tháp cổ Bình Thạnh và đền Bình Thạnh, nơi chúng tôi muốn đến thăm viếng.
2.
Quang cảnh đầu tiên, tôi nhận ra sau 10 năm trở lại, là làng xã có vẻ đông đúc và trù phú hơn. Nét “đặc trưng” của “phố thị” là tiệm, quán cà phê và quán nhậu, san sát và nhiều hơn, nơi mọi người có thể… ngồi đồng và tám với nhau từ sáng cho đến trưa và có thể “tăng ca” cho đến buổi chiều, tối! Nét riêng chỉ có ở…Việt Nam?
Tháp cổ Bình Thạnh, đền Bình Thạnh, một cũ, một mới. Một… già cũ, xưa lắc, có từ ngàn năm và một mới “non trẻ” cũng ngoài trăm năm, tiêu biểu cho 2 tín ngưỡng và hai nền văn hóa khác nhau, cùng hiện diện và tồn tại trên mảnh đất hơn một hec-ta, nằm ở ấp Bình Phú, xã Phước Chỉ, huyện Trảng Bàng (cũ) tỉnh Tây Ninh, thuộc hữu ngạn bên bờ Vàm Cỏ Đông, Chung quanh với những cánh đồng lúa bạt ngàn, hoang sơ, in vào lòng khách viễn du một khung cảnh bình yên và thanh tịnh. Tháp cổ vốn xưa kia là một cụm công trình có 3 ngôi cổ tháp, được xây dựng đã hơn ngàn năm, nay 2 cổ tháp chỉ còn là đống gạch dưới chân nền, được che chắn bởi khung sắt có gắn mái tôn, chống đỡ với nắng, mưa, sương gió, nay chỉ còn lại một ngôi tháp, vừa mới được trùng tu từ năm 1998. Tháp cao 10m, có 4 cạnh hình vuông, mỗi cạnh 5m theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Cửa chính nằm về phía Đông, xây nhô ra phía ngoài, cao 2m, rộng 1m, phía trên cửa chính là một phiến đá lớn hình chữ nhật, kích thước 0,8m X 2m, khắc nổi hình hoa cúc theo lối cách điệu. Ba mặt phía Tây, Nam, Bắc đều có cửa giả, phía trên đắp nổi các hình hoa văn trang trí tinh xảo.



Tháp Bình Thạnh. Hình do tác giả cung cấp
Đây là một trong số các tháp thuộc nền Văn hóa Óc Eo còn sót lại trên đất Nam Bộ, có niên đại xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VIII, thuộc hậu Văn hóa Óc Eo. Tháp được Bộ Văn hóa- Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa vào ngày 23 tháng 7 năm 1993.
Chúng tôi đứng trước cửa tháp, lần lượt bước vào khuôn cửa lờ mờ tối, một khoảng không khí lờ mờ, ngột ngạt trước mặt, tượng thờ Yoni và Linga trước đây đã không còn. Những bát nhang trên các bệ thờ, rưng rưng cháy đỏ. Mùi trầm nhang, xen lẫn mùi phân dơi thoang thoảng, hư ảo. Tạo cảm giác vừa trầm mặc, vừa như nuối tiếc những mất mát của thời gian, vật đổi sao dời và cả lòng người đối với một công trình Văn hóa, Tâm linh của một đế chế xa xưa còn lưu lại…
Chụp hình cùng với nhà thơ Nguyễn Tranh, người giữ đền Bình Thạnh, thầy giáo hưu trí Lê Văn Thật, nhà thơ Nguyễn Phú Nhuận, Trà Huệ… những người con sinh ra và lớn lên từ mảnh đất Phước Chỉ, Bình Thạnh này và nghe những tiếng chim kêu thánh thót, vui vui, như những vần thơ ngẫu hứng mà Nguyễn Tranh vừa thốt ra: “ Một buổi sáng cuối thu/ Trời trong xanh gió mát/Bên tháp cổ Bình Thạnh/ Tình tri kỷ gặp nhau...”. Rời tháp, chúng tôi ghé qua ngôi đền nhỏ bên cạnh.
3.
Đền (Đình) Bình Thạnh là ngôi đền nhỏ được người dân Bình Thạnh xây dựng đã hơn trăm năm, nằm khiêm tốn và sát cạnh bên Tháp cổ Bình Thạnh, với sự khác biệt cả về Văn hóa và Tâm linh. Đền là nơi nhân dân thờ “Thần Hoàng bổn cảnh”, tức người có công khai phá và mở mang làng xã Bình Thạnh, Đền duy nhất còn lại cổng đền phía trước ghi lại dấu ấn rêu phong của thời gian năm tháng, mặt trước xây về hướng Đông, mặt trong có đắp nổi hình “Lưỡng long chầu nguyệt” và hình “Thần Hoàng” cỡi trần, không mặc áo, ngồi trên bục thờ, ngó thẳng vào ngôi chánh điện, đã được tu sửa và xây mới theo cách nhà ba gian, hai chái cổ xưa…



Đền Bình Thạnh. Hình do tác giả cung cấp
Theo truyền thuyết, Thần Hoàng bổn cảnh của đền là Cao Minh, người có công trấn giữ ở phía Tây bờ cõi và khai phá vùng Bình Thạnh, di dân, lập ấp trong thời kỳ chiến tranh cùng với Cao Mên. Xuân thu, nhị kỳ, người dân đều có tổ chức cúng đền, tổ chức hát Bội, để ghi nhớ công lao tiên hiền và bày tỏ tấm lòng của cháu con, lưu lại những nét văn hóa, tâm linh đáng khích lệ.
Cùng quây quần, uống chung trà thơm, do Nguyễn Tranh rót, đãi. Cùng nghe các bằng hữu trò chuyện, ôn cố tri tân, cám cảnh và trân trọng một vùng đất lâu đời, dần thay da đổi thịt, sát bên vùng biên giới với nước bạn, càng nghe cái nắng ấm đầu đông, dìu dịu quanh bước chân người viễn xứ quay về bên cố quận… Đồng hẹn nhau ở quán cà phê để được tự do, thoải mái những câu chuyện còn lại.
Và nắng ấm bắt đầu long lanh trên những đỉnh tháp của cổ tháp và cả trên tàng lá của cây “ Trường già” đang ửng hồng màu lá non, mới…
Phước Chỉ, đầu đông 2025
Trần Hoàng Vy