Hình: AI-Generated.
“Giang hồ” theo từ điển Tiếng Việt là từ Hán Việt, “ Giang” có nghĩa là Sông và “Hồ” là Hồ nước lớn, xuất phát từ “ Tam Giang” và “Ngũ Hồ” là nơi xưa kia có rất nhiều người thích đến ngao du và ngoạn cảnh. Giang hồ còn để chỉ người thích tự do, phóng khoáng: “ Giang hồ quen thói vẫy vùng/ Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” ( Kiều, Nguyễn Du), giang hồ còn để chỉ “ gái lầu xanh, mua bán dâm” như “ gái giang hồ”, và để chỉ giới anh chị, tội phạm, bụi đời là “ dân giang hồ”. Trong truyện Võ lâm, kiếm hiệp, để chỉ xã hội, bang hội, môn phái như “ân oán giang hồ”, và kể cả bậc “ trượng phu quân tử” là “hảo hán giang hồ”.
Sử ký Tư Mã Thiên có đoạn viết: “ Phạm Lãi thừa biển châu phù ư giang hồ” (Phạm Lãi cởi chiếc thuyền nhỏ chơi phiếm trên giang hồ), hay Lục Qui Mông tự xưng mình là kẻ giang hồ nhàn tản. Giang hồ cũng là lời tự xưng của những kẻ ẩn tu: “ Thân ở chốn giang hồ mà lòng vẫn còn lưu luyến nơi triều đình”…
Bài tản mạn này, xin không đề cập đến “chốn võ hiệp kỳ tình” của Kim Dung, chốn “lầu xanh” nơi Kim Bình Mai, hay những “Đại ca Thay” của Duyên Anh, mà chỉ xin đề cập đến những “ văn nhân, tài tử” thích cuộc sống “rày đây, mai đó” ung dung tự tại kiểu… ngao du sông hồ, theo kiểu : “ Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ” (Nguyễn Khuyến).
Cách đây hàng ngàn năm trước, thi tiên đời Đường Lý Bạch, một người phóng khoáng, thích tự do, tự tại, yêu “giang hồ”, xuôi ngược khắp nơi, đã từng cảm khái, bày tỏ tấm lòng “nhớ cố hương” của mình, trong một đêm trăng sáng ở “xứ người” qua bài thơ “ Tĩnh dạ tứ” như sau: “ Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương” ( dịch thơ: Đầu giường ánh trăng rọi/ Mặt đất như phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương). Hình ảnh “ Đê đầu tư cố hương” là một hình ảnh rất thực, sống động và thể hiện tâm lý và bản năng “rất người” của những “tao nhân mặc khách” thích bay nhảy, để rồi đi càng xa, càng nhớ, cái nhớ mà sau này, lớp “hậu sinh khả úy” như thi sĩ Phạm Hữu Quang tự chế diễu mình là “giang hồ vặt” rất được nhiều người tán thưởng và thường ngâm ngợi: “ Giang hồ, ta chỉ giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà!”. Tiếp sau Lý Bạch, là Thánh thi Đỗ Phủ, người có nhiều năm lưu lạc phong trần, sống khổ cực, xa quê vì loạn lạc chiến tranh, nên giang hồ của nhà thơ là “lang bạt kỳ hồ”, cảm khái sự giang hồ qua bài thơ “ Thu hứng” (số 7) là hình ảnh “ Giang hồ mãn địa nhất ngư ông”, phải chăng đó cũng là thú tiêu dao, tự tại, thoát khỏi cuộc sống đời thường?
Ở xứ Việt ta, những “tao nhân mặc khách” “ quen thói giang hồ”, phong sương xem ra có vẻ ít, mãi đến thế kỷ 18, thi hào Nguyễn Du, người đã có nhiều năm giang hồ, không cửa không nhà “ mười năm gió bụi” trong thời loạn lạc chiến tranh giữa Tây Sơn với Chúa Nguyễn, và Nguyễn Du cũng đã từng giang hồ sang tận Trung Quốc cùng với Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Quýnh nhiều năm liền! Phải chăng vì đi nhiều mà ông đã tích lũy cho mình một hành trang vốn sống để viết nên những tác phẩm để đời như truyện Kiều, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục?… Cháu thi hào Nguyễn Du là Nguyễn Hành cũng từng viết 2 câu thơ về chú mình là: “ Giang hồ, long miếu hai đường đủ/ Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh”.
Từ đấy, cho đến khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta và cho đến ngày nay, những văn thi sĩ giang hồ, xem ra ngày càng góp mặt đông đảo với các tên tuổi lẫy lừng: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu…
Chuyện kể vào khoảng năm 1942, Vũ Hoàng Chương, Tô Hoài và Nguyễn Bính “giang hồ” lên Bắc Giang để thăm nhà thơ Bàng Bá Lân. Trong chuyến đi này quí ông đã có được bài thơ liên hoàn: “Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương,/ Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương./ Sở tại bàng quan chầu xuống xóm,/ Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường./ Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán,/ Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương./ Nằm muỗi qua đêm chờ sáng dậy,/ Còi xe phong hỏa xé màn sương.”. Cũng vào năm 1942, thi sĩ Quang Dũng đã có một bài thơ lấy tên là “Giang hồ”, trong đó có những câu: “Mấy gã thanh xuân, lòng bốn cõi/ Nhẹ nhàng thân gửi kiếp ra đi/ Gói, khăn, trăng gió, trời, mây bạc/ Hồn nhẹ quên trong xác nặng nề” và “Cứ thế tháng ngày trong xứ lạ/ Rất nhiều tình mới, rất nhiều duyên/ Bên đường, hoa lá buồn nhan sắc/ Im lặng nhìn qua “tuổi dại điên” ! Hóa ra, những “gã thanh xuân” ấy đã cám cảnh cái tuổi “bồng bột, giang hồ” là “ tuổi dại điên” ư?
Tiếp mạch thơ và khẩu khí “giang hồ” là thi sĩ Phạm Hữu Quang như trên đã nhắc và Linh Phương, 2 thi sĩ thời hiện đại này, một đã mất (Phạm Hữu Quang) và một đã chạm tuổi 80, cùng chung một tựa đề “ Giang hồ” cho thơ của mình, mỗi người mỗi cảm xúc, mỗi hình ảnh nhưng cùng một thi tứ : “ Giang hồ từ thuở ta thất thế/ Chí lớn không thành, thà ẩn cư/ Viễn xứ! Ờ! Thôi thì viễn xứ/ Hết đời phiêu bạt chốn quê xa” rồi: “ Giang hồ. Ta giang hồ trăm bận/ Vẫn thấy lòng đau rứt ruột đau/ Thèm nghe tiếng dế thời thơ ấu/ Ngắm cánh diều bay giữa vô cùng”
(Linh Phương). Phạm Hữu Quang cảm khái thật với lòng, cảm nhận sự thật trần trụi, gió bụi của “giang hồ” : “Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn/ Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình…/… Giang hồ có buổi ta ngồi quán/ Quán vắng mà ta chẳng chịu về…/… Giang hồ mấy bận say như chết/ Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều/ Chí cốt cầm ra chai rượu cốt/ Ừ thôi trời đất cứ liêu xiêu!” Và cuối cùng thì:
“Giang hồ tay nãi cầm chưa chắc/ Hình như ta khóc. Mới hôm qua/ Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà!”.
Cuối cùng, rõ ràng “giang hồ” không nằm trong ý chí và suy nghĩ của người quân tử mà nằm ở việc “ Bất phùng thời”, và là việc “bất đắc chí”, khi thời thế đưa đẩy những người có tài vào “tuyệt lộ” phải “ bụi đời”, phiêu bạt mà lòng luôn canh cánh nhớ về gia đình, người thân và quê hương!…
Trần Hoàng Vy