
Trong ba thập niên qua, mỹ thuật Việt Nam liên tục tạo ra cảm giác sôi động: gallery mở ra dồn dập, thị trường tăng nhiệt theo từng chu kỳ, “hiện tượng” nghệ sĩ xuất hiện thường xuyên, mạng xã hội không ngớt những cuộc tranh luận thị phi. Nhưng phía sau bề mặt náo động ấy lại là khoảng trống đáng lo ngại của một hệ sinh thái chưa trưởng thành: thiếu chuẩn mực nghề nghiệp, thiếu tri thức thẩm mỹ, thiếu định chế dẫn đường và đặc biệt thiếu một nền phê bình mỹ thuật lành mạnh để kiến tạo hệ quy chiếu.
Khi hạ tầng tri thức không theo kịp tốc độ tăng trưởng bề nổi, hệ sinh thái lập tức xuất hiện những lệch chuẩn:
• Họa sĩ sáng tác không có chiến lược dài hạn;
• Gallery trưng bày nhưng hầu như không đầu tư vào diễn giải học thuật;
• Giới sưu tập hành xử theo cảm tính hoặc tin đồn;
• Công chúng thiếu kỹ năng thị giác để phân biệt tốt – xấu, thật – giả.
Kết quả là những bất thường trở thành “chuẩn mới”:
• Tranh sản xuất hàng loạt, chạy theo motif dễ bán;
• “Bán chữ ký” trở thành mô hình mưu sinh khi nghệ sĩ lặp lại chính mình;
• Gallery chạy theo xu hướng ngắn hạn, thay vì thực hiện trách nhiệm kiến tạo giá trị;
• Tranh giả, tranh nhái vận hành như một ngành công nghiệp ngầm;
• Người mua thụ động, bị dẫn dắt bởi truyền thông hoặc giá cả.
Nhà phê bình Robert Hughes từng viết: “Thị trường có thể đẩy giá tác phẩm lên cao, nhưng không thể thổi hồn vào bức tranh.”
Ở Việt Nam, thị trường đang làm điều ngược lại: thổi phồng hình thức, đồng thời rút cạn chiều sâu tinh thần của tác phẩm.
Tốc độ phình nở của giao dịch hai thập niên qua không đi cùng sự lớn mạnh của hạ tầng tri thức. Chúng ta chưa có:
• Một hệ lý luận chung;
• Một tạp chí chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế;
• Một đội ngũ giám tuyển, phê bình độc lập;
• Một cơ sở đào tạo bài bản cho phê bình mỹ thuật, và giám tuyển.
Khoảng trống ấy khiến thị trường bước lên đóng vai phê bình, định nghĩa nghệ thuật bằng giá trị quy đổi, bằng nhu cầu chuộng hình thức, bằng sự ồn ào của dư luận. Từ đó xuất hiện những “mô hình phê bình thay thế”:
• Phê bình đạo đức: đánh giá tác phẩm bằng đời tư nghệ sĩ;
• Phê bình thị trường: giá cao = tranh hay;
• Phê bình cảm tính: “tôi thích – tôi không thích” trở thành tiêu chuẩn;
• Phê bình của phê bình: bàn về scandal thay vì phân tích tác phẩm.
Nghệ thuật bị đặt vào một hệ quy chiếu sai lệch. Một phát ngôn nghịch nhĩ được xem như bằng chứng suy đồi của tác phẩm; một lùm xùm đời tư được dùng để phủ nhận cả sự nghiệp; một đợt “bóc phốt” trên mạng xã hội được xem như phê bình thẳng thắn.
Đó là hệ quả của việc thiếu lý thuyết, thiếu nền tảng, thiếu đối thoại. Khi tri thức vắng mặt, xã hội dễ dàng dùng suy diễn, quy chụp, dư luận đạo đức để thay cho phê bình mỹ thuật.
Nhưng nghệ thuật không phải đạo đức học. Tác phẩm không phải hồ sơ lý lịch của tác giả. Và trong lịch sử nhân loại, nếu đánh giá kiệt tác bằng tiêu chuẩn đạo đức, không ít bảo tàng đã phải đóng cửa. Một số ngộ nhận đang chi phối mạnh mẽ mỹ thuật đương đại Việt Nam:
• Tranh bán chạy = tranh hay;
• Giá cao = chất lượng;
• Gallery nổi tiếng = tác phẩm đẳng cấp;
• Triển lãm nhiều = nghệ sĩ tài năng.
Những ảo giác này mở rộng cánh cửa cho tranh trang trí, tranh công thức, tranh “sản xuất dây chuyền” đội lốt mỹ thuật đương đại.
Trong khi đó, lịch sử phương Tây chứng minh điều ngược lại: Van Gogh, Gauguin, Modigliani, El Greco hay Pollock đều bị thị trường đương thời thờ ơ. Giá trị nghệ thuật luôn vượt lên trên thời giá. Nhưng ở Việt Nam, khi không có phê bình mỹ thuật dẫn dắt, thị trường lại đang tự quyết định thang giá trị.
Trong trạng thái thiếu hệ quy chiếu, xã hội dễ rơi vào một lối đánh giá phiến diện:
• Nghệ sĩ phát ngôn sai → tranh kém;
• Đời tư rắc rối → sáng tác xuống cấp;
• Một status trên mạng → trở thành luận cứ phê bình.
Câu hỏi đáng đặt ra: Khi mua tranh, ta treo tác phẩm, hay treo cả một con người?
Nghệ thuật và đời sống có mối liên hệ, nhưng không thể chồng khít. Nếu chỉ nhìn tác phẩm, ta có thể bỏ qua những hành vi đáng trách. Nếu chỉ nhìn đời tư, ta biến nghệ thuật thành một tòa án đạo đức cảm tính, nơi mọi tác phẩm đều bị xét xử bằng chuẩn mực đạo đức nhất thời.
Hans Ulrich Obrist từng nhận định: “Một tác phẩm cần ngữ cảnh để tồn tại, như cây cần đất để mọc rễ.” Nhưng ngữ cảnh ấy ở Việt Nam chưa được kiến tạo đầy đủ:
• Họa sĩ không được đặt vào bối cảnh lịch sử – mỹ học;
• Tác phẩm ít khi được phân tích cấu trúc, biểu tượng, ngôn ngữ tạo hình;
• Gallery không đóng vai trò diễn giải;
• Phê bình rời rạc, thiếu khái niệm chung, thiếu tiếng nói chuyên môn.
Không có ngữ cảnh, nghệ sĩ phải tự PR, tự phòng vệ, tự định vị — những công việc vốn thuộc về hệ thống ở các nền nghệ thuật trưởng thành.
Để vượt qua tình trạng “ồn ào mà rỗng ruột”, mỹ thuật Việt Nam cần tái thiết trên ba nền tảng:
1) Đạo đức nghề nghiệp
• Sáng tác từ nhu cầu nội tại, không chạy theo thị hiếu ngắn hạn;
• Không tự sao chép bản thân;
• Minh bạch nguồn gốc tác phẩm;
• Kiên trì xây dựng ngôn ngữ tạo hình riêng.
2) Tri thức thẩm mỹ
• Hình thành hệ khái niệm chung và tiêu chuẩn nhận định;
• Phê bình dựa trên hình thức – biểu tượng – bối cảnh, thay vì cảm xúc;
• Tăng cường dịch thuật, nghiên cứu, xuất bản học thuật;
• Khuyến khích đối thoại liên ngành và giao lưu quốc tế.
3) Các định chế chuyên nghiệp
• Gallery trở thành nhà bảo trợ, không chỉ là quầy bán tranh;
• Trường đại học, viện nghiên cứu, tạp chí chuyên ngành thiết lập tiêu chuẩn;
• Nhà sưu tập đầu tư theo tầm nhìn dài hạn, có trách nhiệm thị giác;
• Công chúng được khai sáng thẩm mỹ qua giáo dục và truyền thông nghiêm túc.
Một hệ sinh thái vững mạnh không sinh ra từ mệnh lệnh hành chính, mà từ sự trưởng thành tự thân của từng mắt xích.
Hội họa — tự bản chất — là cuộc đối thoại lặng lẽ giữa con người và thế giới nội tâm. Cuộc đối thoại ấy chỉ vang lên trong một môi trường đủ tri thức, đủ trong sạch, đủ bền bỉ để chống lại sự nóng vội của thị trường và sự phán xét cảm tính của dư luận.
Mỹ thuật Việt Nam đương đại không thiếu tài năng. Điều thiếu chính là một hệ sinh thái biết trân trọng và bảo vệ tài năng, biết đọc tác phẩm bằng tri thức, biết nhìn nghệ sĩ bằng sự công bằng, biết kiến tạo giá trị vượt lên trên những sóng gió thị trường ngắn hạn.
Bởi khi treo một bức tranh, ta không chỉ treo vật trang trí. Ta treo một quan niệm về nghệ thuật, một lựa chọn giá trị, và đôi khi, cả phẩm giá của một con người mà ta tin tưởng.
Trần Huy Mẫn
251129