Trung Điền: Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới bằng ngôn ngữ cũ

Tác giả: Trung Điền
Ông Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 15, sáng 23/12. Ảnh: TTXVN

Nếu cần một bằng chứng cho thấy đại hội 14 tới đây sẽ không phải là nơi quyết định tương lai của Việt Nam thì bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 15 của ông Tô Lâm đã làm việc đó một cách gọn gàng. Nhân sự đã được “biểu quyết với số phiếu tập trung cao.” Văn kiện đã được “thống nhất.” Quy chế, danh sách, đoàn chủ tịch, ban kiểm phiếu đã sẵn sàng. Nói cách khác, mọi thứ quan trọng đã xong. Phần còn lại của đại hội 14 chỉ là nghi lễ.

Trong các nền chính trị đóng kín, người ta thường gọi những sự kiện như vậy là “lịch sử.” Nhưng lịch sử, nếu chỉ để xác nhận những quyết định đã được chốt trước đó trong các phòng họp kín, thì là lịch sử của hình thức, không phải của lựa chọn.

Ông Tô Lâm dành phần trọng tâm của bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 15 để giới thiệu ba “đột phá chiến lược”: Thể chế, nhân lực, hạ tầng. Nếu nghe quen tai, đó là vì chúng đã được nhắc đến suốt hơn một thập niên. Từ đại hội 11 đến 13, thứ tự có thể thay đổi, từ ngữ có thể được làm mới, nhưng nội dung thì vẫn vậy. Đó là những “đột phá” chưa từng thực sự đột phá.

Vấn đề không nằm ở danh sách ưu tiên, mà ở điều không được nói ra. Nếu thể chế là đột phá then chốt, tại sao suốt nhiều năm, thể chế vẫn vận hành chủ yếu để kiểm soát rủi ro chính trị hơn là giải phóng năng lực kinh tế? Nếu nhân lực là đột phá, tại sao hệ thống cán bộ vẫn thưởng cho sự an toàn và trừng phạt sự khác biệt? Nếu hạ tầng là đột phá, tại sao bê tông và đường cao tốc đi nhanh hơn rất nhiều so với pháp quyền, minh bạch và dữ liệu?

Câu trả lời ngắn gọn là: Đột phá nào cũng dừng lại trước ranh giới quyền lực. Và ranh giới ấy không được phép chạm tới.

Còn sáu trọng tâm mà Trung ương 15 thông qua bao phủ gần như mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia. Nhưng thứ tự của chúng nói lên nhiều điều hơn nội dung. “Xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” luôn đứng đầu. Phát triển kinh tế, con người, khoa học công nghệ đứng sau. Đó không phải là sự tình cờ. Đó là tuyên bố ưu tiên chiến lược.

Trong logic này, phát triển đất nước không phải là mục tiêu tối thượng, mà là hệ quả mong muốn – miễn là nó không làm xáo trộn cấu trúc quyền lực hiện hữu. Khi hai mục tiêu mâu thuẫn, lịch sử cho thấy ổn định chính trị luôn thắng. Bài diễn văn bế mạc Hội nghị 15 không chỉ tiếp tục truyền thống đó, mà còn củng cố nó bằng ngôn ngữ “kỷ nguyên mới.”

Thật vậy, “kỷ nguyên mới” là cụm từ được ông Tô Lâm sử dụng nhiều lần trong hơn một năm qua như một lời hứa lớn. Nhưng một kỷ nguyên mới không thể được xây dựng bằng ngôn ngữ của quá khứ. Trong khi thế giới nói về trí tuệ nhân tạo, cạnh tranh công nghệ, và quyền lực mềm dựa trên thể chế mở, thì diễn văn vẫn xoay quanh những khái niệm quen thuộc: Tự chủ, tự lực, tự cường – được hiểu theo nghĩa phòng thủ.

Tự chủ chiến lược, trong bối cảnh này, không phải là tự tin hội nhập sâu hơn, mà là tránh phụ thuộc bằng cách hạn chế mở cửa thể chế. Đó là một chiến lược an toàn, nhưng cũng là một chiến lược tốn kém về dài hạn. Những quốc gia thành công trong chuyển đổi đều chấp nhận rủi ro thể chế ở một mức độ nào đó. Việt Nam, qua bài diễn văn bế mạc, ông Tô Lâm đã cho thấy rủi ro lớn nhất mà lãnh đạo muốn tránh không phải là tụt hậu kinh tế, mà là thay đổi chính trị.

Phần thẳng thắn nhất của bài diễn văn – dù không được nhấn mạnh – là đoạn xác nhận Trung ương đã thông qua danh sách nhân sự khóa 14. Đây là khoảnh khắc mà nhiều người quan sát chính trị Việt Nam chờ đợi, bởi nó xác nhận điều vốn đã được ngầm hiểu rằng đại hội 14 không phải là nơi lựa chọn, mà chỉ là nơi công bố.

Khi nhân sự được quyết định sớm và với “số phiếu tập trung cao,” điều đó đồng nghĩa với việc không có nhiều không gian cho bất ngờ, càng không có chỗ cho những ý tưởng cải cách thực sự khác biệt. Một bộ máy được chọn để duy trì ổn định sẽ hành động đúng như tên gọi của nó là giữ nguyên trạng.

Diễn văn nhắc lại lời hứa quen thuộc là khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhưng kinh nghiệm nhiều năm cho thấy, ranh giới của “dám” luôn mờ nhạt. Dám cải tiến kỹ thuật – được. Dám đụng đến lợi ích nhóm – nguy hiểm. Dám thử nghiệm chính sách – tùy mức độ. Dám đặt câu hỏi về cấu trúc quyền lực – không.

Không có cơ chế bảo vệ độc lập, lời kêu gọi “dám làm” chỉ là lời khuyến khích mang tính đạo đức, không phải là cam kết thể chế. Và đạo đức, trong một hệ thống kỷ luật nghiêm ngặt, hiếm khi đủ mạnh để chống lại nỗi sợ.

Tất cả những điều trên dẫn đến một kết luận khó tránh là đại hội 14, dù được gọi là “dấu mốc lịch sử,” nhiều khả năng sẽ là một nghi lễ chính trị được dàn dựng kỹ lưỡng. Nó sẽ đầy đủ biểu tượng, khẩu hiệu, và kỳ vọng được diễn đạt bằng ngôn ngữ trang trọng. Nhưng những quyết định cốt lõi đã được đưa ra trước đó, tại những hội nghị ít được công chúng chú ý hơn.

Điều này không phải là điều bất thường trong các hệ thống chính trị một đảng. Điều bất thường là mức độ trì hoãn cải cách khi các điều kiện khách quan ngày càng bất lợi. Việt Nam không còn ở giai đoạn “đi sau dễ bắt kịp.” Dân số đang già hóa, tiềm năng lao động giá rẻ thu hẹp, cạnh tranh khu vực gay gắt hơn. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục ưu tiên ổn định trên cải cách có thể mang lại sự yên ả ngắn hạn, nhưng cái giá dài hạn sẽ ngày càng lớn.

Tóm lại, qua bài diễn văn bế mạc Hội nghị 15 cho thấy nội dung vẫn là trấn an hệ thống, củng cố niềm tin nội bộ, và gửi đi thông điệp rằng mọi thứ đang trong tầm kiểm soát. Nhưng chính sự trơn tru ấy lại làm lộ ra vấn đề là mọi thứ không có gì phải thay đổi một cách khẩn cấp.

Trong khi thế giới chuyển động nhanh, diễn ngôn chính trị vẫn xoay quanh những ưu tiên cũ. Hoa lá cành của đại hội 14 có thể rất rực rỡ. Nhưng cái gốc – cấu trúc quyền lực và tư duy ổn định – vẫn không đổi. Và khi cái gốc không đổi, thì “kỷ nguyên mới” vẫn chỉ là một chương mới của cùng một cuốn sách cũ.

Trung Điền

Có thể bạn cũng quan tâm