
Một chiều cuối hạ, khi mẹ vừa hát xong khúc Nam Ai, ngoài ngõ có người dừng bước. Là một bà lớn, khăn lượt áo the, dáng người đẫy đà nhưng ánh mắt sắc như lưỡi dao cạo. Bà đứng im hồi lâu sau bờ rào tre, rồi nhẹ gõ cửa.
– Xin lỗi, tiếng hát vừa rồi là của ai vậy ?
Mẹ cô đứng dậy, sắc thái ngượng ngùng, e dè nhìn người lạ. Người đàn bà kia mỉm cười, vồn vã :
– Tôi là chủ Lầu Hoa Nguyệt ở cuối Xóm Chợ. Nghe chị hát… tôi tưởng đang nghe một khúc nhạc từ Huế vọng trong giấc ngủ. Chị có muốn đến lầu của tôi, mỗi tối một giờ, chỉ hát thôi, không cần tiếp khách, tôi trả chị 3 hào mỗi lần ?
Lời mời bất ngờ ấy rơi vào căn nhà vốn đã chật, lại thêm cảnh túng. Cha im lặng, chỉ đưa mắt nhìn trừng mâm cơm nguội. Mẹ cô không vội. Bà chờ đến khi con gái ngủ thiếp trên chiếu, mới quay sang chồng, giọng nhỏ nhưng chắc :
– Ông à, tôi chỉ hát thôi. Tôi bán tiếng hát chứ không bán mình. Cô Đầu cũng là người. Mà là người sống bằng nghệ, giữ nghệ.
Cha cô lặng thinh. Rất lâu sau, ông mới thở dài :
– Hát trong sân nhà khác với hát giữa những người lạ. Tiếng đàn có thể giữ mình, nhưng e không giữ được lòng người.
Ông nói vậy, không phải vì nghi ngờ vợ, mà vì nỗi ám ảnh vẫn còn vương trong lòng từ những năm ở kinh thành. Thuở còn là nhạc quan, ông từng chứng kiến một vị đồng liêu trong triều – tay đàn hồ nổi danh trong triều, đạo mạo, gia thất yên ổn – chỉ vì mê một cô đào lầu ca Huế mà tan cửa nát nhà. Người ta kể, ông ấy ban đầu chỉ đến lầu ca để nghe một khúc Nam Bằng, một lần tình cờ. Nhưng rồi mỗi đêm, ông lại tìm đến, để rồi rơi vào vòng quẩn quanh mê đắm. Cô đào kia sắc nước hương trời, giọng buồn như sương phủ Thiên An. Ban đầu chỉ là chữ nhạc, rồi thành rượu, thành thơ, rốt cuộc hóa thành tình. Cuối cùng, ông từ chức, bỏ vợ, theo cô vào trong Nam. Từ đó, trong giới nhạc quan, lầu hát trở thành điều cấm kỵ. Họ gọi cô đầu là “xướng ca vô loại” – hát không chừng, sống không nề. Người có chữ, có đạo không ai dám bén mảng ca lầu. Cha cô nhớ chuyện xưa mà thắt lòng.
Hiểu điều không nói ra, mẹ nắm tay chồng, giọng khẽ như mưa đầu mùa thấm vào mặt áo :
– Nếu tôi không hát, con gái mình sẽ đói. Nếu tôi hát, nó sẽ lớn lên với tiếng đàn, thay vì tiếng nợ.
Tối đó, lần đầu tiên mẹ ra khỏi nhà với chiếc áo tươm tất nhất, đôi dép cỏ khô, và một khối sợ. Nhưng bà không quay đầu lại. Trước cửa lầu hát, bà cúi chào, rồi bước vào, mang theo tiếng hát từng nuôi con trong sương sớm, bằng áo phèn chua, bằng tình thương không biết khóc lớn.
Khi bà đi, cha vẫn ngồi bất động bên cái bàn tre cũ, tay lần chuỗi tràng hạt gỗ mun đã mòn nhẵn theo năm tháng. Ngọn đèn dầu hiu hắt chiếu lên lộ rõ nếp nhăn vầng trán, nơi từng viết bao câu đối, dạy bảo trẻ con chữ Nho giờ chỉ còn lặng lẽ gió lùa.
Ông không ngăn. Nhưng cũng không tiễn.
Mỗi bước chân của vợ khua lên ngoài hiên như từng nhát gõ vào danh dự của người đàn ông từng là trụ cột, từng đứng trong sân rồng Thái Hòa, từng gảy khúc cung đình cho vua nghe những đêm trăng non. Giờ đây, ông bất lực nhìn người vợ hiền ôm tiếng hát đi vào một nơi mà xưa kia, ông từng dạy con gái tránh nhắc tên.
Trong lòng ông không oán vợ. Chỉ hận thời thế, hận mình bất dụng.
Ông biết bà không bán thân. Nhưng đời có khi không đợi ta giải thích. Danh phận một người đàn ông đã mất chức, mất đất, giờ lại phải lùi vào bóng tối để vợ gánh gồng nuôi nhà – ấy là nỗi nhục không ai chửi mà vẫn khiến ông mất ăn khó ngủ.
Ông lặng lẽ ngồi xuống bên chiếc bàn tre cũ xiêu vẹo, tay vuốt nhẹ qua mặt đàn như đang tìm lại một đoạn khúc đã mất. Ông từng là nhạc quan trong cung, từng đứng ngay chốn triều, từng tin rằng chữ “Sĩ” là cột trụ của gia đạo, phép nước. Vậy mà giờ đây phải lặng nhìn vợ khoác chiếc áo nâu sồng cũ bước đi trong trời chạng vạng, bán tiếng hát mình để kiếm buổi cơm nuôi cả nhà. Trong lòng ông một phần tan hoang, nhưng ông không khóc thành tiếng.
Và khi tiếng guốc mộc xa dần, khuất ngoài ngõ, ông chỉ khẽ nói – không phải nói với ai, mà chỉ với chính mình mình thôi :
– Làm chồng mà không che được cho vợ… thì còn xứng là trụ cột gia đình nữa chăng ?
Câu nói rơi xuống nền gạch lạnh như hòn sỏi rơi vào lòng giếng cạn. Đêm đó, ông ngồi một mình bên cây đàn nguyệt, không bật đèn, chỉ có ánh trăng lẻ loi đâm nghiêng qua song cửa. Ông gảy đi gảy lại bản Bình Sa Lạc Nhạn. Tiếng đàn chập chờn như hơi thở hụt hẫng. Không phải để diễn tấu, mà như để dỗ lòng mình.
Gảy xong một lượt, ông buông tay. Lặng đi một lúc, rồi khẽ đứng dậy, đưa tay chạm vào cây đàn nguyệt cũ treo trên vách, cây đàn mà thuở trước, ông từng gảy cho vợ nghe lúc mới về chung nhà. Cây đàn giờ phủ bụi mỏng, dây đã lỏng, như một khúc ký ức đóng băng với thời gian, một phần đời của ông mà đã lâu ông không dám nhìn. Mỗi lần thoáng qua, ông chỉ đưa mắt khẽ chạm, như chạm một di ảnh. Cây đàn này không ai được phép đụng tới. Không đứa học trò nào dám hỏi cớ sự. Cây đàn ấy… là nỗi nhớ được treo cao, là điều ông gìn giữ cho riêng mình – như giữ một người yêu cũ trong tim, dù vẫn sống chung trong hiện tại.
Trong ánh đèn dầu chập chờn, ông ngửa mặt nhìn lên mái lá, khẽ ngâm – không thành tiếng lớn, mà như gió thoảng lướt qua môi :
“Đã mang tiếng Sĩ giữa trần ai
Giữ được gì đâu giữa gió lay
Một bóng giai nhân vào chốn chợ
Còn ta ôm mối thẹn đêm dài…”
Tiếng ngâm chưa dứt hẳn thì ngoài ngõ đã có tiếng guốc khẽ dừng. Một người đàn ông đứng đó, tay cầm chiếc nón rộng vành, dáng cao gầy, áo dài the đen phủ bụi đường, như người vừa đi qua một chặng gió xa. Trăng rọi xiên qua hàng trúc, in bóng ông xuống lối đất nâu như một nét vẽ xưa còn sót lại giữa thời cuộc.
– Thầy… còn nhớ trò không ?
Cha cô ngẩng lên. Một lúc lâu, ánh mắt ông mới chạm được vào ký ức. Ký ức ấy mang tên Lê Vĩnh Khương, học trò cũ từ những ngày xưa còn dạy chữ trong khu nội thành Huế, khi tiếng chuông Phú Xuân còn ngân trong buổi sớm, khi những buổi học diễn ra bên chiếc bàn gỗ lim mát rượi, giữa một thế giới mà triều đình còn là trung tâm của trật tự.
Lê Vĩnh Khương lúc ấy là một cậu thiếu niên sáng dạ, luôn lễ phép cúi đầu trước thầy, nhưng ánh mắt thì lúc nào cũng nhìn xa, vượt khỏi bức tường trường, vượt khỏi cổng thành. Cậu học chữ Nho nhưng cũng không quên tìm hiểu tiếng Pháp. Hỏi thầy về thiên lý nhưng cũng lặng lẽ đọc Rousseau, Voltaire trong bóng tối. Một người mang trong mình nỗi đau của kẻ mất quê, nhưng cũng là kẻ không chịu chết chìm trong tro tàn quá khứ.
Cha cô mời Khương vào nhà. Gian hiên mộc im lìm, chỉ có tiếng dế và mùi hương trầm thoang thoảng từ bàn thờ nhỏ. Họ ngồi đối diện, không vội nói. Mỗi người rót một chén trà ấm. Qua song cửa, ánh trăng nghiêng như lắng nghe.
– Bản Bình Sa Lạc Nhạn vừa rồi Thầy đánh… sao nghe thê lương quá. Nhưng con mãn nguyện được nghe nó trước khi đi xa.
Thầy ngước nhìn cậu học trò cũ, lòng bồi hồi. Giờ đây không còn là cậu bé cắp sách tung tăng ngày nào, mà đã là một người trai trẻ, cao lớn, giọng trầm, ánh mắt không còn mơ hồ mà sáng lên bởi một thứ ánh sáng xa xôi hơn – ánh sáng của một niềm tin không còn nằm trong sách Nho, mà hướng về những chân trời mới.
Ông hỏi nhỏ :
– Con sắp ra đi ?
Khương gật nhẹ :
– Dạ. Qua Pháp, thưa Thầy. Anh con làm thông ngôn cho Tòa Sứ, xin cho con được học bổng. Họ bảo nếu con học giỏi, có thể thi vào trường Thuộc Địa… Nhưng con không muốn làm quan cho Tây. Con chỉ muốn học cho rõ vì sao nước mình lụn bại, suy tàn. Học, để tìm đường về.
Cha cô không trả lời ngay. Ông rót thêm trà, nhìn dòng nước chảy vào chén như nhìn thời gian trôi qua kẽ tay.
– Học để về… hay học để quên, hở con ?
Khương lặng đi một lúc, rồi mới nói :
– Con từng nghĩ quên là phản bội – nén nỗi xúc động dâng trào, anh tiếp – nhưng bây giờ, con sợ rằng bám mãi vào cái cũ… mới là thực sự phản bội. Người mình cứ giữ hoài những điều đã mục mà quên rằng cái sống là cái biết thay da. Con không bỏ tiếng mẹ, không bỏ tình quê. Con chỉ muốn hiểu thêm, từ phía bên kia trái đất.
Ông thở nhẹ, như tiếng đàn run trên dây tơ.
– Vậy thì đi. Nhưng nhớ lấy một điều : học cái mới, mà giữ cái cốt. Gió có thể đổi chiều, nhưng tre cong rồi vẫn thẳng.
– Dạ. Con khắc ghi lời thầy. Con sẽ giữ tim mình ở lại, dù đầu phải cúi nơi đất khách.
Ngoài sân, gió nổi. Trong nhà, ông đứng dậy, bước chậm tới vách gỗ, gỡ cây đàn nguyệt treo cao. Ông lên dây, gảy khẽ vài phím, tiếng đàn trầm xuống như một lời tiễn biệt nghẹn ngào không thành tiếng.
– Trước khi đi… nghe lại một khúc cũ vậy.
Khương cúi đầu. Đêm tiễn biệt ấy, dưới ánh trăng nghiêng, tiếng đàn ngân lên lần nữa, ai oán như lần cuối, không phải để hoài cổ, mà để gửi gắm, cho một người sắp đi xa mang theo nỗi nhớ quê nhà gói bọc trong hành lý.
Khi tiếng đàn vừa dứt, Lê Vĩnh Khương cúi đầu thật sâu vái chào thầy như vái chào đoạn đời cũ. Không ai nói gì thêm. Anh lặng lẽ đứng dậy, khẽ khàng như sợ lay động bóng đêm. Ngoài sân, gió lùa qua hàng cau, mang theo hương lá mục và mùi phù sa dòng sông đục. Cha cô tiễn anh ra đến cổng tre, không chúc, không dặn, chỉ đặt tay nhẹ lên vai, rồi quay lưng vào nhà.
Và trong bóng chập choạng ấy, không ai hay rằng có đôi mắt nhỏ vẫn âm thầm dõi theo. Ánh nhìn tròn xoe của đứa trẻ không ngủ, ẩn sau bức mành vải cũ đã sờn mép tưa mành. Cầm, lúc ấy chưa tròn mười tuổi, dáng nhỏ, ngồi co ro trong góc nhà, mắt ngước hết nhìn cha đến nhìn người khách lạ. Cô không hiểu hết nghĩa cuộc hội thoại của người lớn nhưng từng lời, từng khoảng lặng, từng tiếng đàn lẻ loi đều như thấm vào tâm theo hơi thở. Cảm giác ấy không biết gọi là gì, nhưng lại đọng ở đáy mắt như sương sớm chưa tan. Có gì đó vừa đẹp, vừa buồn, vừa bao trùm như bầu trời khuya, khiến trái tim bé nhỏ siết co như mảnh khăn ướt bị vắt cùng kiệt.
Cầm chưa từng nghe cha nói nhiều như thế, cũng chưa từng thấy ông lặng đi lâu đến vậy sau một cuộc trò chuyện. Trí óc trẻ con còn chưa phân biệt được đúng sai, cô chỉ cảm nhận một thứ gì đó giống như nỗi mất mát – lặng lẽ, dày và lạnh – như hơi sương phủ lên đôi vai cha khi ông cúi đầu đứng nơi ngạch cửa.
Rồi cô quay sang nhìn cây đàn nguyệt. Vẫn là cây đàn đó – nằm yên trên vách gỗ – nhưng từ đêm nay nó không còn là một vật vô tri nữa. Nó đã biết than oán, biết nghẹn ngào, biết thở dài như lòng người. Và cô chợt hiểu rằng : tiếng đàn có thể khóc mà không rơi nước mắt. Cũng như cha, có thể tan nát mà vẫn ngồi im, lặng lẽ không lời.
Từ đêm ấy, giọng ngâm của ông – cái vang vọng của người từng đứng chốn sân rồng, giờ là cái nghẹn ngào của kẻ đã lùi vào bóng tối – trở thành âm thanh đầu tiên ăn sâu vào ký ức cô. Không phải lời thơ, mà là cái khắc khoải trong từng hơi thở, cái ngập ngừng của một chữ chưa kịp thoát khỏi cổ họng, cái lặng dài giữa hai câu, như nhịp tim của một người đã từng yêu nước đến tận cùng nhưng đành bất lực buông tay. Và cũng từ đêm ấy, cô bắt đầu biết lắng nghe. Không chỉ bằng tai, mà bằng cả tâm hồn.
Nhiều năm sau, khi ngồi lặng bên chiếc đàn bầu trên lầu hát lơ lửng giữa dòng Vàm Cỏ, cô mới hiểu ra rằng : đêm hôm ấy không chỉ là một buổi tiễn đưa. Nó là khởi điểm.
Khởi điểm cho một hành trình không ai dẫn. Hành trình làm người giữa tiếng đàn và câm lặng. Lúc ấy, cô chỉ là một đứa bé chưa biết màu phấn son, hương hoa ; chưa hiểu chuyện đời. Nhưng chính lòng ngây thơ ấy đã giữ lại nguyên vẹn cái cảm giác đầu tiên, thứ cảm giác trong veo như ánh trăng xanh rơi vào giếng cạn : trông thấy rõ, nhưng không chạm được. Từ đó, mỗi lần nghe ai ngâm thơ, mỗi lần gảy một phím buồn, cô đều thấy tim mình rung lên một hồi âm mơ hồ, như tiếng vọng từ một nơi rất xa trong quá khứ, nơi có bóng cha ngồi âm thầm và giọng người khách trẻ lặng như sông chiều.
Trúc Tiên
Trích trong Truyện dài : Cô đầu lầu gió ngược, chương 2 – Trúc Tiên
Có thể mua trên Lulu theo đường link này