Truyện vừa Nguyễn Quốc Bảo: Chuyện củ nâu (Kỳ 1)

Tác giả: Nguyễn Quốc Bảo

Chuyện niên thiếu của tôi

Hình minh họa: AI

Trời đất làng Bái Đao, huyện Nông Cống những năm bốn chín, năm mươi. Và năm mốt.

Bái Đao, một ngôi làng nhỏ bé nhưng trầm mặc, nép mình bên những triền đê dài uốn lượn, nơi con sông Nông Giang lững lờ trôi qua miền đất Nông Cống. Mảnh đất này sống cùng nhịp thở của đồng ruộng, nơi những cánh đồng lúa bạt ngàn vươn lên dưới nắng mưa, nơi con người dãi dầu với đất, với trời.

Những năm 1949, 1950, trời đất Bái Đao lúc thì chang chang nắng như dội lửa xuống những mái tranh bạc phếch, lúc lại mưa dầm dề, kéo dài cả tháng, biến đường làng thành những lối bùn lầy nhão nhoẹt. Nhưng dù nắng hay mưa, dù rét cắt da hay oi nồng đến ngột ngạt, khi mùa đến, lúa vẫn chín vàng rộm, trải dài tận chân trời, hương rơm rạ ngai ngái quện theo những cơn gió đồng, vấn vít từng mái nhà, từng bờ tre, bến nước.

Lũ trẻ trong làng, lớn bé đủ cả, tụ tập quanh những đụn rơm cao ngất, rôm rả đánh khăng, ném cù, chân tay lấm lem bùn đất, tiếng cười vang rộn khắp các con ngõ nhỏ. Chúng háo hức nhất là những buổi chiều, khi người ta kể chuyện những người tản cư hoặc ai đó mang theo những câu chuyện từ xa, về chiến sự, về những vùng đất lạ, về những đổi thay mà dân làng chỉ biết đoán già đoán non. Máu mặt nhất vùng có ông Án và ông Đốc Chó, hai nhân vật tản cư về làng, mà chỉ cần nhắc đến là đủ khiến đám trẻ nín bặt, lắng nghe những giai thoại về họ với ánh mắt tò mò.

Có buổi, tàu bay bà già Pháp thả truyền đơn, lũ trẻ tranh nhau đi nhặt từng tờ. Nhặt xong thì bị vệ quốc quân tịch thu hết. Có buổi trong làng, bô lão, ông bà trai gái, con nít, mặt lo lắng rõ ra mồn một, tin đồn Tây sắp đổ bộ ở Sầm Sơn. Họ dặn dò nhau, thấy máy bay tới thì lo nhảy xuống hố tiêu thổ kháng chiến mà tránh.

Trong cái làng quê ấy, có một thằng trai vừa tròn mười tám – Tựa. Nó không nổi bật bởi tài ăn nói, cũng chẳng vì vẻ ngoài bảnh bao, mà bởi dáng người dong dỏng, làn da rám nắng, và đôi tay lúc nào cũng vương mùi bùn đất. Nhà nó nghèo, ruộng nương chẳng có, chỉ còn hai mẹ con bấu víu vào con trâu bạc – gia tài duy nhất mà bố nó để lại. Con trâu bạc ấy nổi tiếng khắp vùng vì sức kéo phi thường, thân hình vạm vỡ, lông bóng mượt như ánh thép. Đường cày nó kéo ra thẳng băng như kẻ chỉ, mượt mà chẳng lệch một phân.

Cha mất sớm, từ nhỏ, Tựa đã phải gánh vác gia đình. Nhà nó thuê ruộng của ông Án Thanh Hóa để cày bừa, trồng lúa. Ông Án – một quan chức về hưu, lúc tại chức, gom góp tiền lương bổng mua đất, chẳng trực tiếp làm ruộng mà cho dân thuê, mỗi mùa đến thì thu tô. Cứ đến vụ, nhà Tựa lại gánh từng thúng lúa đến ấp ông Án nộp thuế dạ. Cứ thế, năm này qua năm khác, Tựa lớn lên trong cảnh cơ hàn, cần cù, lầm lũi mà không một lời than vãn.

Tựa không giống trai tráng trong làng, chẳng ham rượu thịt, cũng không màng những cuộc hội hè đình đám. Cả năm chỉ có hai ngày Tết là thong thả một chút, còn lại, nó chỉ biết đến ruộng đồng, đến cày sâu cuốc bẫm, tối về lại lăn ra cái chõng tre, ngủ một giấc không mộng mị. Sáng sớm, khi sương còn giăng mờ trên mặt ruộng, nó dậy thật sớm, ngồi bên bếp lửa cùng mẹ, ăn bữa sáng đạm bạc—bát cháo trắng nóng hổi, đĩa cơm rang thơm mùi hành mỡ, có hôm may mắn thì có xôi lạc. Nhưng cái thú thực sự của nó lại nằm ở điếu cày thơm nồng mùi thuốc lào, bát nước chè vối còn nghi ngút khói. Hít một hơi dài, phả làn khói trắng lên mái tranh, nó khoan khoái đứng dậy, xách cày, vác bừa, dắt trâu ra đồng.

Mùa nào việc nấy. Cấy xong thì bới cỏ, làm cỏ xong lại dọn ruộng chuẩn bị vụ mới. Những ngày nông nhàn, nó mò cua, bắt cá, lội ruộng kiếm tôm tép phụ thêm miếng ăn cho mẹ. Thích nhất của nó là trải lưới bắt chim. Ngày mưa, nước sông dâng cao, bùn đất nhão nhoẹt, nó vẫn lội bì bõm trên đồng, quần xắn cao đến gối, chẳng nề hà chuyện ướt lạnh. Vất vả là thế, nhưng chưa bao giờ nó hé răng than lấy một lời. Những ngày mưa ấy, chỉ cần chiều về, mẹ nấu cho bát bún riêu cua nóng hổi, hay dọn ra đĩa bánh đúc gạo đỏ chấm tương, vài con cá kho đậm đà với bát nước rau muống luộc chấm muối ớt, là đã đủ ấm lòng. Và ngày nào cũng thế, món chính vẫn là cà muối, dưa muối, canh rau đay hay rau tầm tơi.

Có lúc, không mệt, mẹ cho ăn chè khoai môn, chè kê. Ấy, đó là chưa kể đến mùa mưa rươi. Mẹ tráng trứng rươi để ăn với bánh đa. Cứ thế, cuộc đời Tựa trôi qua, lặng lẽ mà vững vàng như đường cày thẳng tắp giữa cánh đồng mùa gặt. Không xô bồ, không mộng tưởng xa vời, chỉ có ruộng đồng, con trâu bạc, và bữa cơm quê đạm bạc mà ấm áp tình mẹ.

Cũng trong những ngày mưa dai dẳng ấy, có một người con gái vẫn hay lặng lẽ nhìn nó từ xa, con Hĩm.

Ở đầu làng, có con Hĩm, mười sáu, dáng người lẳn chắc, tóc chải đuôi gà, mặc yếm thắm, váy nâu hay váy đen. Nó có cái răng khểnh, mỗi lần cười lại ánh lên một nét duyên ngầm. Đôi mắt Hĩm hơi lé tý xíu, nhưng lại thăm thẳm như chứa cả trời đất. Hĩm không ưa lũ trai làng miệng dẻo, nó chỉ thích ngồi đống rơm nhìn ra cánh đồng, nơi có thằng Tựa khi thì đi cày đi bừa, khi thì lùa vịt, lúc lại vục xuống bờ mương bắt cá. Chẳng biết từ bao giờ, mỗi khi thấy bóng dáng thằng Tựa lom khom bên đường cày, lòng Hĩm lại rộn ràng khó tả.

Bố Hĩm, tên Lung, lúc xưa là phó lý, sau khởi nghĩa, chẳng có ai bằng ông nên ông ra ứng cử chủ tịch xã, và được dân bầu. Phó Lý Lung là người nhàn hạ nhất làng. Chuyện cày bừa ông cũng có, nhưng ông sống sung túc hơn hàng xóm, Bà Lung giỏi nội trợ đã đành mà bà là người buôn bán rất giỏi, nổi tiếng cả huyện. Chuyện nấu ăn trong nhà, bây giờ con Hĩm lớn rồi, nó lo cáng đáng mọi chuyện. Bà chỉ cần chỉ bảo. Bà Lung, tính quán xuyến, cái gì cũng lo liệu chu toàn, còn biết cách dạy con. Nhà có hai đứa, con Hĩm ngoan ngoãn tháo vát, từ sớm đã biết đỡ đần việc nhà, lợn gà nông súc đều đến tay nó. Chỉ có thằng út là hay lêu lổng, mèo mả gà đồng, bị mẹ véo tai mắng mỏ suốt ngày, nhưng bố thì cưng chiều hết mực, bảo rằng con trai nối dõi phải thế.

Hĩm lớn lên trong sự đủ đầy. Quần áo lúc nào cũng phẳng phiu, mặt mũi sáng sủa, sạch sẽ. Mẹ đi chợ, người ta còn chỉ bảo bà cách dạy con ăn mặc sao cho nề nếp. Nó biết mình là con gái chủ tịch xã, trong làng ít ai sánh kịp, nhưng vẫn thua xa mấy cô tiểu thư con nhà quan Đốc Chó, dân tản cư từ phố về, ăn trắng mặc trơn. Hĩm không so bì, cũng chẳng bận tâm nhiều, nhưng đôi lúc trong lòng cũng thoáng một chút gì đó mơ hồ khó diễn tả.

Mười sáu tuổi, nó đã đi qua tuổi dậy thì một cách êm đềm. Cái thời khắc thiếu nữ, với nhiều đứa con gái là một cánh cửa mở ra bao điều mới lạ, thì với nó, chỉ có đôi chút ngẩn ngơ. Hĩm nhớ năm mười bốn rưỡi, khi lần đầu có tháng, nó giật mình hốt hoảng, rồi ngượng nghịu chạy vào bếp thì thầm với mẹ. Bà Lung chỉ cười, bảo: “Thế là lớn rồi đấy.” Hĩm chẳng hiểu lớn là thế nào, nhưng từ dạo ấy, lòng nó thỉnh thoảng lại gợn lên một nỗi mong manh không tên. Nó thao thức nhiều hơn, đêm về trằn trọc, không phải vì nóng nực hay muỗi cắn, mà vì một điều gì đó mơ hồ, vừa lạ lẫm vừa thân quen. Trong thơ ngây tuổỉ mười sáu, Hĩm cũng trải nghiệm cái gì đó, mà nó vẫn không hiểu là cái gì. Nó muốn có cái gì đó của riêng nó. Cái gì đó nó muốn dấu kín.

Ngày Tết đến, con Hĩm nghiễm nhiên là cô gái đẹp nhất làng. Mẹ sắm cho nó bộ áo tứ thân bằng lụa mỏng, mềm mại như nước chảy, yếm đào hồng e ấp ôm lấy bờ vai tròn trịa, váy lĩnh đen huyền, cùng với dải nhiễu điều buông nhẹ bên hông, làm tôn lên vẻ thiếu nữ đang độ xuân thì. Mái tóc đuôi gà được mẹ vuốt suôn mượt, vấn gọn ghẽ, quấn thêm dải lụa đỏ trông duyên dáng lạ thường.

Tết đến, làng rộn ràng trong sắc pháo hồng, trong mùi bánh chưng, bánh tét quyện khói bếp ấm nồng. Đám trai làng, đứa nào đứa nấy mắt sáng rỡ, cười nói râm ran, nhưng cứ thấy bóng con Hĩm đi qua là vội vàng sửa lại khăn áo, lấy cớ đứng chặn đầu đường để mong được thấy nó gần hơn. Hĩm biết chứ, nhưng chỉ cười nhẹ, lúm đồng tiền ẩn hiện nơi khóe môi càng khiến đám trai càng mê mẩn.

Buổi sáng mùng Một, nó theo mẹ lên đình lễ tổ tiên, hai má ửng hồng trong gió xuân se lạnh. Mấy bà trong làng xúm lại khen:

– Cái Hĩm lớn quá rồi, đẹp như bông hoa xuân!

– Đúng là con gái chủ tịch xã có khác, trắng trẻo, mượt mà quá!

Nó cúi đầu cười khẽ, tay khẽ vân vê tà áo, lòng chợt dậy lên một cảm giác lạ. Nó không ghét những lời khen ấy, nhưng cũng chẳng quá bận tâm. Tết nhất, người ta vui vẻ, khen nhau đôi câu cũng là chuyện thường tình. Nhưng có một ánh mắt làm nó thấy nao nao trong lòng. Đứng xa xa ngoài hiên đình, bên cạnh mấy gốc đa cổ thụ, thằng Tựa vẫn lặng lẽ nhìn nó, ánh mắt không giống bọn trai làng tán tỉnh nông nổi, mà có chút gì đó trầm tư, thẳm sâu như đáy nước hồ mùa thu.

Thằng Tựa  nhìn lướt qua con Hĩm, rồi bước đi, về nhà. Con Hĩm cũng trông thấy Tựa. Trong lòng, một thứ cảm xúc mơ hồ chợt len vào. Một điều gì đó rất khẽ, như một nụ chồi vừa vươn ra dưới nắng xuân.

Cái Hĩm không hiểu vì sao mình lại để ý đến thằng Tựa. Hĩm không phải đứa hay mơ mộng như mấy con gái cùng trang lứa, cũng chẳng phải hạng mê trai đẹp hay thích những lời đường mật. Nhưng ở thằng Tựa có cái gì đó khiến nó thấy an tâm, như một tảng đá vững chãi giữa dòng nước xoáy, như cây đa đầu làng tỏa bóng mát rượi những ngày hè.

Nói riêng ra, Tựa lại có dáng hảo hớn, cao to, lông mày xếch, cằm vuông, mặt chữ điền. Tuy hút thuốc lào, nhưng cặp môi không bị thâm. Tay chân gân guốc nổi lên cuồn cuộn, những thớ thịt chắc như thép nguội, chẳng phải kiểu phì nộn của kẻ nhàn rỗi mà là sức vóc của một người quen lao động, của những ngày bừa nắng cày sương. Nó ít nói, nhưng giọng trầm rất dễ nghe, mỗi khi cất lời, dù chỉ là gọi trâu, dặn mẹ hay hỏi han ai chuyện đồng áng, cũng khiến người ta phải chú ý. Không ai bao giờ thấy giận dữ trong khóe mắt nó. Mà người ta cũng ít thấy nó cười. Nhưng có cái gì đó trong dáng vẻ của nó; cái tĩnh lặng của một con người nặng lòng suy nghĩ, một kẻ không cần khoe khoang nhưng vẫn khiến người ta phải để ý.

Nó không phải trai tứ xứ, cũng chẳng lẫn vào đám trai làng. Ở nó có chút gì khác. Làm gì cũng cẩn thận, chắc chắn. Khi ra đồng, chân bước xuống ruộng là biết ngay nước sâu cạn thế nào. Cầm lưỡi liềm, chỉ lia một nhát là gọn cả nắm lúa, không sót cọng nào. Chăn trâu, cày ruộng, hay dựng nhà, lợp mái rạ, thứ gì nó cũng biết làm, không phải chỉ biết sơ sơ, mà là làm tới nơi tới chốn. Người trong làng ai cũng quý, không chỉ vì nó khỏe, mà vì nó chắc chắn—chắc từ lời nói đến việc làm. Nhưng tất cả ẩn dụ dưới dáng vóc một nông phu lo làm ăn.

Người ta nói, ở đời có những người như vậy. Họ không cần nhiều lời, không cần khoe khoang, nhưng đứng giữa đám đông vẫn khiến người khác phải liếc mắt nhìn. Thằng Tựa là một đứa như thế.

Thằng Tựa không giống lũ trai làng chuyên tán tỉnh, bẻm mép. Nó lầm lũi, chăm chỉ, lời nói ít mà chắc, đã mở miệng thì câu nào cũng gãy gọn, chẳng thừa chẳng thiếu. Cái vẻ ngoài tưởng cục mịch ấy lại toát ra một thứ gì đó khó tả—một sức mạnh tiềm ẩn, không phải kiểu vũ phu, mà là sự điềm tĩnh của người hiểu rõ mình là ai, cần làm gì. Cái Hĩm thích nhìn Tựa làm việc—dáng đi thoăn thoắt, khi lùa vịt thì nhẹ như lướt trên đồng, khi vác cày vác bừa thì chắc nịch, mỗi bước đi đều nặng như đóng cọc xuống đất.

Bố Tựa ngày trước có ông lang Mùi, bạn cố tri, đến chơi cả tháng, rồi tiện thể dạy bố con nó mấy đường võ. Tựa lớn lên trong những buổi luyện quyền, luyện côn giữa vườn nhà, bóng đổ dài trên nền đất tối. Không ai trong làng dám gây sự với nó, nhưng chẳng mấy ai thấy nó đánh nhau bao giờ. Mấy bà hàng xóm hay bảo: Thằng Tựa hiền như cục bột!

Bà Lung cũng từng nói thế. Nhưng con Hĩm thì biết, cái hiền ấy không phải kiểu bị bắt nạt mà không biết phản kháng. Nó là kiểu của một người hiểu rõ sức mạnh của mình, biết khi nào nên dùng, khi nào nên giữ. Và có lẽ, chính cái cảm giác đó làm nó thấy gần gũi thằng Tựa hơn bất kỳ ai khác.

Mà đâu chỉ có thế. Cái Hĩm biết chữ, biết đọc quốc ngữ, lại nghe cha nó giảng về giai cấp, địa chủ, bần cố nông. Ngày ngày nó thấy mẹ nó buôn bán, thấy bố nó làm chủ tịch xã, nó hiểu gia đình mình không thể so với đám con quan quyền, nhưng cũng chẳng phải dân nghèo khổ. Nhà thằng Tựa cũng vậy, có ăn có để, không túng thiếu, thậm chí dư dả để mẹ nó thỉnh thoảng ra chợ bán gạo, bán gà, còn Tựa thì có tiền mua thuốc lào.

Tết năm nay, nhà nó chung với hàng xóm hạ một con lợn trăm cân. Cái Hĩm nhìn thấy Tựa đứng đó, tay áo xắn cao, lộ ra những bắp tay rắn chắc, giúp người ta mổ lợn, chia thịt. Hĩm thoáng mỉm cười. Ở Tựa có cái gì đó làm nó cảm thấy vững vàng, y chang như cái gốc đa đầu làng đã đứng đó bao đời, không nao núng trước gió bão.

Một ngày, trời đang yên ả bỗng đổ cơn mưa lũ lớn. Mây đen ùn ùn kéo đến, gió giật từng cơn, sấm sét đùng đoàng như xé toang bầu trời. Thằng Tựa dẫn con trâu bạc ra bãi xa để gặm cỏ, không kịp về nhà, đành tìm chỗ trú dưới gốc cây me già đầu ruộng. Trâu bạc đứng cạnh, vẫy đuôi, thỉnh thoảng hất đầu lên như bực dọc vì mưa dội xuống lưng. Còn Tựa, hai tay vòng trước ngực, nhìn xa xa, mặc cho cơn mưa rát rạt quất vào gương mặt rám nắng.

Nó đứng đó chưa lâu thì bỗng thấy bóng một người hối hả chạy vào. Con Hĩm. Người ướt như chuột lột. Hĩn tay ôm nón lá, tay giữ vạt áo, vội vã nép vào gốc cây. Hơi thở còn gấp, nó run lên vì lạnh. Mái tóc đuôi gà đã xổ tung, bết vào cổ vào vai, nước từ tóc nhỏ từng giọt xuống áo. Áo quần mỏng dính vào người, lộ rõ những đường nét xuân thì.

Tựa thấy mà bối rối. Từ nhỏ đến lớn, chưa khi nào nó đứng gần con gái như vậy, lại trong cảnh trớ trêu thế này. Nó không biết phải làm sao, chỉ biết đứng nép qua một bên, tránh nhìn lâu. Nhưng rồi, không hiểu sao, nó lại mỉm cười—một nụ cười hiếm hoi, nhẹ nhưng khó khăn, như thể chính nó cũng không quen với điều đó. Hĩm liếc nhìn thằng Tựa, mắt ngạc nhiên. Tựa cười? Thuở nay ai cũng bảo nó nghiêm nghị, hiền như cục đất nhưng lại ít cười, ít nói. Ấy vậy mà giờ đây, nụ cười kia, dù thoáng qua, lại làm con tim Hĩm lạ lẫm, bồn chồn.

Hai đứa đứng lặng một lúc, chỉ nghe tiếng mưa đổ rào rào trên lá, trên đồng ruộng ngập nước. Rồi Tựa lên tiếng trước, giọng trầm mà dễ nghe:

– Đằng nớ chạy mưa hả?

Hĩm cúi mặt, giọng còn run:

-Tớ đi cất thuốc cho Bố, ngang đây…

Nó nói ngập ngừng, lấm lét nhìn Tựa.

-Mưa ri, đã mất lả (lửa) lại mất cả truo (tro).

Hĩm bật cười khe khẽ. Tiếng cười trong veo giữa cơn mưa, như làm dịu đi cái lạnh của gió. Tựa nghe mà thấy lòng nhẹ hẳn.

Bất giác, con Hĩm bặm môi hỏi:

-Đằng nớ có ai chưa?

Tựa thoáng bất ngờ. Nó lúng túng, nhưng rồi cũng hỏi lại:

-Đằng nớ?

Hĩm hóm hỉnh đáp:

-Tớ còn chờ độc lập!

Tựa phì cười. Con bé này, hồi nào đến giờ vẫn tinh nghịch như rứa.

– Ông Giời thật ác…

– Chớ lúc ni, ba bốn o có bợm (bạn) cùng chăng… Hĩm hỏi lại.

Tựa không trả lời, chỉ nhìn con trâu bạc vẫn ung dung nhai lại cỏ, đuôi phe phẩy lười biếng. Giọng nói của Hĩm và Tựa có âm điệu đặc trưng của người quê Thanh Hoá, nặng trĩu thổ âm nhưng chân chất và dễ nghe.

Dần dà, cả hai bớt thẹn thùng, bắt đầu huyên thuyên chuyện trò. Chuyện trời chuyện đất, chuyện mùa vụ, ruộng nương, rồi những điều thầm kín trong làng mà chỉ dân quê mới hiểu. Hĩm kể về chuyện con bò nhà nó đẻ lứa nghé đầu tiên, Tựa nói về đám ruộng lúa năm nay có vẻ bội thu. Hai đứa nói như chưa từng được nói, như thể bao nhiêu năm qua có biết bao điều muốn kể mà nay mới có dịp bày ra. Mưa bớt hột lúc nào không hay. Gió nhẹ dần. Trời hửng sáng sau trận mưa như trút. Cả hai đứng lặng một hồi lâu. Cuối cùng, Tựa cất giọng trầm trầm:

– Thôi, đằng nớ về đi. Tớ cũng về, kẻo mẹ trông.

Con Hĩm thật tình chẳng muốn về chút nào. Nó cứ đứng đó, đôi mắt long lanh. Hình như nó có gì muốn nói, nhưng rồi chỉ khẽ đáp:

– Ừa…

Rồi lặng lẽ quay đi, để lại phía sau một bóng hình vững chãi, đứng nhìn theo, chẳng nói thêm lời nào. Tựa đi tắt về nhà, miệng lẩm bẩm: Đôi ta còn lạ chưa quen …

Xế chiều hôm đó, sau một ngày dài nhổ cỏ ngoài ruộng, Tựa xốc lại chiếc đòn gánh trên vai, rồi rảo bước xuống bến sông. Nắng chiều muộn trải dài trên mặt nước sông Mã, nhuộm cả dòng chảy một màu vàng rực pha lẫn chút hồng cam nhạt. Từng con sóng lăn tăn xô vào bãi bồi, mang theo mùi phù sa ngai ngái.

Nó qua sông thăm Cô Năm, nhưng quan trọng hơn là nhờ cô tìm giúp ít củ nâu cho mẹ. Mấy năm nay, mẹ dành dụm tiền để mua được vải khổ lớn 25, tính nhuộm lại rồi may quần áo cho mẹ và cho Tựa đi làm ruộng. Quần áo cũ đã sờn, bay màu, nhiều chỗ chắp vá, mẹ nói, lần này nhuộm xong sẽ có màu mới, bền hơn.

Cô Năm nghe xong, cười hiền:

– Chuyện nhỏ! Bên thôn cô có bà Ninh hay trữ củ nâu lắm. Ông Ninh mỗi hai, ba năm lại gọi thợ lên rừng kiếm củ nâu, có khi đi cả tuần, đem theo gạo, muối vừng làm lương thực. Nhưng mà, củ nâu đâu phải thứ khó kiếm, nó là dây leo, củ nằm ngay trên mặt đất hoặc sát lớp đất cạn, chứ không cần đào sâu như người ta vẫn nghĩ.

Tựa gật gù. Thì ra củ nâu không khó tìm, nhưng phải biết chọn loại tốt. Nghe cô kể, nó hình dung ra cảnh những người thợ rừng vác gùi, men theo lối mòn, lật từng lớp lá khô tìm từng củ nâu. Có nhiều loại củ: củ nâu dọc đỏ vỏ nhẵn, nhựa đỏ nhạt, nhuộm lên vải cho màu bóng đẹp; củ nâu dọc trai thì vỏ sần sùi, nhựa đỏ thẫm, lên màu đậm; còn củ nâu tẻ thì vỏ nứt, màu nâu xám nhạt, cơm dày, nhựa nhiều, thường dùng để nhuộm lớp màu nền trước.

– Nếu gặp được loại củ nâu đỏ nhiều nhựa, con cứ lấy. Có nắng ròng tháng Ba, chỉ cần một ngày cũng nhuộm được năm nước, màu lên đẹp lắm!

Nghe vậy, Tựa mừng thầm, chắp tay cảm ơn cô. Nó sửa lại chiếc bị bao bố mang theo, hy vọng lát nữa bà Ninh sẽ để nó chọn được vài ký củ ưng ý. Cô Năm và bà Ninh chuyện trò mãi không dứt, còn Tựa thì áy náy lo về muộn. Nó liếc nhìn mặt trời đã chếch về phía rặng tre. Nếu không đi sớm, lỡ chuyến đò cuối cùng, phải đợi sáng mai mới về được.

Trên đường ra bến, nó đi vội, qua những luống ngô xanh mướt, qua con đê nhỏ nơi lũ trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ. Đến bãi sông, nó thở phào nhẹ nhõm khi thấy đò vẫn còn bên kia bờ, đang đón khách sang. Nó siết chặt tay ôm bao củ nâu. Gió chiều mát lạnh, thổi bay những giọt mồ hôi còn vương trên trán. Nó đứng yên, nhìn dòng sông lặng lẽ trôi, lòng rộn lên niềm vui. Mẹ sẽ có củ nâu để nhuộm, sẽ có màu vải mới để may áo quần. Một chút màu nâu trầm lặng giữa những ngày lam lũ, như chính tình thương thầm lặng mẹ dành cho nó.

Dưới bóng chiều chập choạng, bầu trời lặng gió, chỉ còn tiếng nước vỗ mạn bờ, nghe lách tách. Thằng Tựa đứng trên bãi sông, hai tay giữ chặt bao bố đựng củ nâu, mắt chăm chăm nhìn sang bên kia bờ, nơi con đò nhỏ đang lững lờ trôi sang phía này. Mặt nước sông Mã nhuốm màu hoàng hôn, những vệt sáng dài trải ra như dát vàng lên sóng nước. Xa xa, bóng núi lờ mờ sau màn sương mỏng, làng mạc ẩn hiện thấp thoáng trong chiều muộn.

Cơn gió nhẹ lướt qua, mang theo mùi bùn non ngai ngái, mùi nước sông hòa lẫn với hơi đất từ bãi bồi. Thằng Tựa kéo vạt áo lau mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi đưa mắt nhìn quanh. Xa hơn một chút, bên triền sông, một tốp người đang í ới gọi nhau gánh nước. Đàn cò trắng lững thững đậu trên cánh đồng xa xa, chốc chốc lại sải cánh bay lên, chao liệng giữa khoảng trời đỏ rực.

Tựa nhớ cái điếu cày cũ mẹ đưa cho lúc sáng, đeo trên vai; tính rít một hơi cho đỡ buồn. Ở bến đò có mấy người đứng chờ, ai cũng lặng lẽ, dõi mắt theo con thuyền nhỏ. Nó không muốn ai để ý mình. Tựa cúi xuống, xoay xoay quai bao bố, lắng nghe tiếng sóng đập nhẹ vào bờ cát. Đò cập bến. Người lái đò chống sào, khẽ gọi:

– Đi không? Lên đò kẻo muộn.

Thằng Tựa bước xuống, lựa chỗ ngồi gần mũi thuyền, ôm chặt bao bố vào lòng. Con đò lại chậm rãi rời bến, trôi theo dòng nước. Tiếng mái chèo khua nhịp nhàng, gợi lên trong nó một nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ đang cặm cụi bên bếp lửa, nhớ cả những hôm hai mẹ con ngồi hong vải nhuộm dưới nắng, màu vải nâu sẫm dần, thơm mùi củ nâu hăng hắc.

Thằng Tựa khẽ mỉm cười, tự nhiên thấy lòng ấm lại. Chuyến đi hôm nay không chỉ là việc mua củ nâu, mà còn là chút lòng nó góp vào những lo toan của mẹ, là niềm vui giản dị khi làm được điều gì đó cho mẹ. Con đò vẫn lững lờ trôi giữa dòng sông rộng, đưa nó về với bến bờ thân thuộc, nơi có mẹ đang đợi, có mái nhà nhỏ đơn sơ, và có cả những mùa nhuộm vải bền bỉ, tháng năm gắn bó với làng quê.

(Còn nữa)

Nguyễn Quốc Bảo

Có thể bạn cũng quan tâm