Từ Thức: Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Tác giả: Từ Thức
Nhà văn Tiểu Tử (1930-2025)

Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn ‘’miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp

***

André Gide nói “C’est avec les beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise literature”’ (Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở) (1).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt, chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn Made in Vietnam: “ngưi chi mà tình nghiã quá héng? “Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần đối diện với những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu, đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào, vẫn còn những người tử tế. Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.

MIỆT VƯỜN

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên.

Tiểu Tử không “làm văn”.

 Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam – với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.

Văn chương, trước hết là “style”. Toni Morrison, nhà văn nữ Hoa Kỳ, Nobel văn chương, nói: “Nếu tôi đánh rơi vài tờ bản thảo, người lượm được sẽ nói: đây là bản thảo của Toni Morrison”.

Có hai loại nhà văn: có văn phong hay không. Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất. Đọc vài câu, người ta biết là văn Tiểu Tử.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp, Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My, Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm, bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng…

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất “ miệt vườn”, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử, 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn (Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe “Cn gì c nói nghe cô Hai, đng ngi. Mình vi nhau mà..

Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ ” này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. (Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, Hà Nội của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng “đéo”, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu:  ”Còn báo Nhân Dân không? – Đéo còn nhân dân, ch còn Ngưi Hà Li” )

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng.

Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại. Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong “Thầy Năm Chén”, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ mt cái gói mu đ đã phai màu, ct làm nhiu gút’’, nói: ‘’cho con cái ni. (ông già người gốc Huế). Con gi trong ngưi đ h thân.’’ Kiệt đến Canada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.

“Chiếc Khăn Mùi Xoa” có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử, trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, “con Huê”, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại:  “Con Huê tin tao ra cng, đng ngp ngng mt lát ri bng nói mt mch, là l, như ti mình tr bài thuc lòng thu nh: Anh qua bên Tây, gp anh Cương nói em gi li thăm nh. Nó nói ri b chy vi vào trong, tao thy nó đưa tay qut nưc mt my ln. Tao đng chết trân, nh li li con Nhàn, em con Huê, nói vi tao: Anh biết không, ch Huê thương anh Cương t hi còn nh ln.  Ngưi con gái quê mình nó tht thà, trung hu đến mc đ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. H coi đó là t nhiên, phi có nưc ln nưc ròng”

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái: “Con ráng tìm cách v Nhơn Hoà, Cu C, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết”.  Chữ ” ai ”, đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. “Cái này” là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố, thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…

Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. “Tt c đu b xáo trn, b nghch lý đến ni tao sng trong đó mà lm khi phi t hi: làm sao có th như vy đưc ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian xảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Nhng ngưi ‘’ch mng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng h, như mt bn cưp. H ‘’bươi ‘’ ti lên trên, t trên xung dưi, t trưc ra sau, t sau ra trưc…ging như gà bươi đng rác. Gp gì kim tra ny. Vy ri…ht hết. ‘’

Sau 75, người ta truyền nhau một câu ca dao mới: Thng khôn thì đã vưt biên. Nhng thng li không điên cũng khùng.

Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ”cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch “đánh tư sả mại bản” trở  thành không điên cũng khùng.

Ông Tư (trong Im Lặng) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bng nhiên ông Tư nhn thc rng tt c nhng gì thuc v ông bây gi ch còn li ngưi v cu ông đang ch đi ông nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’: ‘’ a, sao li luôn. Bây gic nhà đc lp ri, không còn thng nào ngi trên c mình hết; vy mà ba má b qua đây luôn. Thit là vô lý”. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.

Bà Hai (trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. “Khi tri nng ráo, bà đi tut ra ngoài vàm rch, lên ngi trên môi đt có th nhìn thng qua bên kia sông. Như vy, ‘”khi nào thng nh nó v, mình thấy nó t đng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó lin hà”.

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. S ngưi ta đ ý. Thy không đưa con ra cng nghiã trang. S ngưi ta đ ý. Thy không dám đ rơi mt git nưc mt. S ngưi ta đ ý. Thy ch thi. Thi bui bây gi ch th dài là không ai đ ý. Bi vì ai cũng th dài hết ‘’.

Ông già bới rác (truyện cùng tên) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bi rác đ kiếm my thng Vit Cng tao đã nuôi trong nhà”.

Trong Những Mảnh Vụn, người yêu “đi chui bán chánh thức “, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm, anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ By không biết mình đang đi lưm nhng nhng mnh vn ca cuc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mng thành công ‘’ đã tht s thành công trong nhim v đp nát tt c nhng gì ca min Nam, k c nhng gì nh bé nht, tm thưng nht như tình yêu ca chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vn bán cháo lòng, lâu lâu vn chi thng con mà ging như bà chi cc

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh: Đánh cho M cút, Ngy nhào. Đánh cho chết m đng bào min Nam.

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bnh nhơn cũng vng. Làm như ngưi ta s quá ri…quên bnh. Trái li, bên phía chùa thì li đông ngưi lui ti và ngày nào cũng có ngưi. Làm như ngưi ta ch còn biết …da vào Pht”.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide: Plus un humoriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour la rendre significative.

 (Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã).

Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết “lựa” cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội Việt Nam những năm sau 75.

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rushdie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được?. Staline: “một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê”.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch; hay bi hài kịch – farces tragiques-của một thời đảo điên.

KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh: tiếng Vit còn, nưc Vit còn.

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. “Chuyện Thuở Giao Thời” là tựa một tập truyện của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt.  

Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử, có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý. Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý, về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa.

Từ Thức, Paris
(tuthuc-paris-blog.com)

1. A.Gide mun nói viết văn, phi đi vào tn cùng tâm khm ca con ngưi. Và nếu đi ti cùng, s thy nhiu cái xu, cái l lói. Bn cht con ngưi phc tp, đi sng phc tp, cái xu cái tt ln ln. Văn chương phi lt trn đưc cái s thc đó.

2. Trên đây là bài nói chuyn ca tác gi nhân dp ra mt sách ca Tiu T Paris, ngày 03/01/2015. Nhng đon văn đưc trích dn t ba tuyn tp truyn ngn: Nhng Mnh Vn, Tiếng Ca Vng C, ChuynThu Giao Thi.

*********

Tiu s nhà văn Tiu T :

H tên: Võ Hoài Nam
Sanh năm: 1930
Nguyên quán: Gò D
u H (Tây Nin )
Bút hi
u: Tiu T

Ông là con trai duy nht ca giáo sư Võ Thành C, cu giáo sư trưng trung hc Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.

– Tt nghip K sư, Marseille năm 1955.
– D
y lý hoá trung hc Petrus Ký:  1955/1956.
– Làm vi
c cho hãng du SHELL Vit Nam t năm tháng 10 1956 đến 30/04/1975.
– Vư
t biên cui năm 1978. Ðnh cư Pháp t đu năm 1979 đến nay.
– Làm vi
c cho hãng đưng mía ca Nhà nưc Côte d’ Ivoire (Phi Châu) :1979/ 1982.
– Làm vi
c cho hãng du SHELL Côte d’ Ivoire t năm 1982 đến 1991, v hưu Pháp.
– Trư
c 1975, gi mc biếm văn “Trò Ði ” ca nht báo Tiến.
– B
t đu viết truyn ngn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.
– T
p truyn “Nhng Mnh Vn ” (Làng Văn Toronto xut b ) là tp truyn đu tay.

Nguồn: Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu

Có thể bạn cũng quan tâm