
Tôi bước vào căn nhà ấy với một cảm giác vừa căng thẳng, vừa tò mò xen lẫn bất an. Một căn nhà xa lạ. Những người trong nhà hoàn toàn xa lạ. Bầu không khí không quen chất chứa những hoài nghi và không thoải mái. Bà Sue ra mở cửa, dắt tôi đến cái ghế sofa trong phòng khách:
-Cháu ngồi chơi. Cháu uống nước gì cô lấy cho cháu? Nước cam được không? Hay là trà đá?
Tôi tháo cái xắc trên vai xuống:
-Dạ, nước gì cũng được. Nước lạnh cũng được.
Bà Sue quay xuống bếp. Tôi nghe tiếng những viên đá rơi ra từ tủ lạnh và tiếng nước chảy vào ly. Rồi bà Sue trở lên ngồi đối diện với tôi. Bà bảo:
-Uống nước đi cháu. Đi đường xa chắc mệt.
Tôi không nghĩ là tôi mệt vì đường xa dù tôi đã lái xe trên hai ngàn dặm đường để đến đây. Tôi mệt vì cái cảm giác trạo trực, lo lắng, bồn chồn cuồn cuộn dâng lên làm tôi ngộp, không thở được. Bà Sue không biết rằng tôi đã ngồi trong xe một lúc lâu để tự trấn tĩnh trước khi bước tới bấm chuông nhà bà. Khu xóm của bà Sue thuộc hạng trung bình. Buổi trưa yên lặng. Một cây hoa vàng thò đầu ra khỏi cái hàng rào nâu buông những cánh nhỏ mong manh rơi vương vãi trên đất. “Một căn nhà không có gì nổi bật”-tôi tự nhủ. Sát cửa là tấm chà chân cũ và dơ có in hàng chữ “welcome”. Khi cánh cửa ấy xịch mở tôi có cảm tưởng như mình đang bước vào một cái cõi bí mật, một thâm cung hay một tòa lâu đài cổ với những căn phòng chưa bao giờ để lọt ánh sáng mặt trời.
Tôi nhìn bà Sue. Và tôi biết là bà đang quan sát tôi. Đôi mắt phía sau tròng kính của bà hắt ra những tia vừa dò xét vừa thương hại. Làm như cả hai đang tìm kiếm một sợi dây hay một thanh gỗ để làm cây cầu nối hai bờ xa lạ. Cha tôi là chồng của bà Sue và cha tôi đã chết rồi, cách nay hai tháng. Bà Sue viết thư về báo cho ông nội tôi hay. Ông tôi lúc ấy đang nằm trong nursing home, bị mất trí đã lâu. Cái thư ấy mãi một tháng sau mới tới tay cô tôi. Cô tôi lùng ra được tôi thì mất thêm một tháng nữa. Cha mẹ tôi ly dị từ khi tôi lên tám, đang học lớp ba trường tiểu học. Mẹ tôi lấy chồng khác. Cha tôi lấy vợ khác. Tôi là đứa con lạc loài.
Tôi chưa từng gặp bà Sue trước đây. Dĩ nhiên là cha tôi chẳng bao giờ đá động đến đời sống riêng của ông sau khi ông không còn ở với mẹ tôi nữa. Ông đã gặp người đàn bà này ra sao, bà ấy là người như thế nào, làm nghề gì, ở với bà có hạnh phúc không, tôi không biết. Bà Sue đứng tuổi, có lẽ lớn hơn cha tôi nhiều. Bà tô mắt rất đậm, mượn màu son nét phấn để che đậy những gì cần che đậy. Người bà dong dỏng cao, cắt tóc rất ngắn, chải keo dựng đứng theo cái kiểu gọi là đầu đinh. Bà ăn mặc rất mốt, mẫu mã thường thấy trong các tạp chí thời trang. Nghe cô tôi nói bà là thợ uốn tóc. Cha tôi thuở còn ở với mẹ tôi thì làm quản lý tiệm rượu, có biệt tài thử rượu, phân biệt được trên hai trăm loại rượu khác nhau. Sau này ông bỏ nghề đó, làm gì không biết nhưng không bỏ được bệnh ghiền rượu. Ông ấy không thích nhà, không thích xe, chỉ thích rượu.
Bà Sue nói:
-Cha cháu có để dành cho cháu một số tiền và ít đồ lặt vặt. Cô nhắn cháu về đây để trao lại cho cháu số tiền và những món đồ đó.
Mắt tôi hướng về cái tủ thấp trong phòng khách. Trên nóc tủ là tấm ảnh chân dung của một người đàn ông, hai cây nến để hai bên, ở giữa là bình hoa nhỏ. Tôi bước lại cái tủ nhìn thật lâu vào bức ảnh. Tôi hỏi:
-Cha cháu đây à?
Bà Sue hỏi:
-Cháu không nhận ra sao?
Tôi đáp:
-Thấy lạ quá. Lúc trước cha cháu rất nhiều tóc, tóc bung ra, bờm xờm rất đẹp. Sao trong hình thấy chẳng còn sợi nào.
-Mấy năm sau này ông ấy bị rụng tóc.
-Lần cuối cháu gặp cha thì ông ấy cũng còn nhiều tóc.
-Lần cuối ấy là hồi nào?
Tôi nhẩm tính. Lần ấy tôi vừa xong lớp sáu. Cha tôi về thăm, dắt tôi và ông nội đi ăn ở một nhà hàng Pháp. Ông nội lúc ấy chưa lẫn, ăn thịt thỏ, uống rượu vang, nói cười sang sảng. Cha tôi và tôi ăn món nghêu hấp, chấm nước sốt bơ ngọt lừ, ngon không tưởng được. Ăn xong tôi còn được tráng miệng bằng một miếng bánh kem ướp rượu rum. Sau lần ấy cha không về thăm tôi nữa. Mỗi năm ông gởi cho tôi một món quà sinh nhật. Đã mười năm tôi nhận được những món quà khác nhau đúng vào ngày sinh của tôi với nét chữ và những lời thương yêu theo cùng công thức. Tôi nghĩ là tôi đã quên mặt cha rồi. Nay bất ngờ tôi nhìn được ông qua tấm ảnh này. Ông thay đổi nhiều quá, mặt phình ra, có nọng cằm và sói sọi. Tôi có cảm tưởng như tôi chưa hề biết người trong ảnh là ai.
Bà Sue nói:
-Cháu xuống bếp ngồi chơi. Cô làm một dĩa rau trộn nhé, ăn với gà nướng. Cháu ăn với cô cho vui. Từ hồi cha cháu mất nhà quạnh quẽ không còn ai. Cô ăn một mình buồn quá.
Trong bếp có cái bàn ăn nhỏ hai ghế. Bà Sue dọn dẹp sách vở báo chí bừa bãi trên bàn, chỉ vào một cái ghế bảo:
-Cháu ngồi đây đi. Chỗ này cha cháu vẫn ngồi trước đây.
Góc nhà có cái lồng nuôi hai con chim nhảy lưng tưng. Bà Sue nói:
-Cha cháu nuôi chim cho hai đứa cháu ngoại chơi.
Vừa thốt ra bà lập tức sửa lại:
-Con gái cô có hai đứa con nhỏ.
Tôi hiểu là bà Sue đã có đời chồng trước. Cha tôi nuôi chim cho hai đứa cháu ngoại của vợ chơi. Còn tôi, tôi đã chơi với cái gì trong sự thiếu vắng triền miên của cha tôi? Chỉ có ông nội đưa tôi đến trường, ông nội vỗ tay dưới hàng ghế khán giả khi tôi lên lãnh thưởng. Cha tôi còn sót lại trong tôi qua cái họ mà tôi phải mang lấy, không thay đổi được. Bà Sue nhìn tôi một hồi và buột miệng bảo:
-Cháu giống cha cháu quá, nhất là đôi mắt.
Sự tức tưởi dâng lên trong lòng tôi như cái hồ ngập nước. Tôi nói:
-Cháu giống ông nội nhiều hơn.
Bà Sue khoát tay cười. Tôi thật tức mình vì đã nói một câu đần độn. Hai con chim chắc đang giành ăn, kêu the thé. Tôi muốn bóp cho chúng chết cho rồi.
Bà Sue hỏi:
-Sao mắt cháu đỏ vậy?
Tôi nói:
-Tuyến nước mắt của cháu bị nghẽn. Mắt lúc nào cũng khô và đỏ. Cháu phải nhỏ nước mắt nhân tạo thường xuyên để giữ cho mắt ẩm ướt. Cháu không còn khóc được nữa. Lâu rồi…
Nói xong tôi chợt thấy như lỡ lời. Làm như tôi đã tâm sự quá nhiều với một người mới quen. Câu nói ấy lại vô tình gợi lên một sụ trớ trêu đến đau lòng. Trong cái cảnh tang thương thế này mà tôi cũng không còn nước mắt. Tôi thấy bà Sue quay đi. Dường như bà cảm nhận được cái tê tái của tôi.
Bà Sue dọn lên bàn dĩa gà nướng vàng tươm mỡ, rót chút nước tương vào cái chén nhỏ. “Ăn đi cháu”-bà nói. Tôi nhìn ra cửa sổ, nhìn quanh quất cái ấm trên bếp, bình nấu cà phê, ngọn đèn trên trần, cái radio, tai lắng nghe tiếng bụi tre sột soạt ngoài vườn, tiếng hai con chim chíp chíp, tiếng xe cộ mơ hồ, như trong tiềm thức. Đây là cái không gian mà người tôi gọi bằng cha đã từng đi ra, đi vào, ăn uống, nằm ngồi, chè chén, bật ngang bật ngửa đây sao? Có cái gì như ngang trái lắm, làm như cái tiếng “cha” trong lúc này được thốt ra từ hai môi tôi là cái danh xưng người ta dùng để gọi một anh phát thư hay một chị bán hàng. Nó cạn cợt như một làn gió lướt qua bậc thềm, mang cái khí lạnh của những năm tháng chất chồng trong chia biệt, trong oán trách, mà lại còn ủ chút hương tàn của một thâm tình cốt nhục xa xăm. Bà Sue chỉ ra ngoài hàng hiên:
-Cha cháu hay ngồi uống rượu ngoài đó. Có khi uống tới hai ba giờ sáng. Ông ấy ghiền rượu nhưng hiền, không phá phách gì ai. Ngồi uống tì tì một mình. Uống hết nổi thì đi ngủ.
Nắng chiếu xiên xiên lên cái bàn ngoài hiên. Có hai ba chai rượu và cái đồ vặn nút chai bỏ nghiêng bỏ ngửa trên ấy. Tôi tự nhủ:” Mình giống như một người vào thăm viện bảo tàng và bà Sue là người hướng dẫn. Thật buồn cười. Có điều mình không phải mua vé.”
Tôi hỏi:
-Cha cháu đã chết như thế nào?
Bà Sue lấy ra một xấp giấy tờ chứng tử. Cha tôi chết do nghẽn động mạch tim. Bà Sue kể:
-Ông ấy chết bất đắc kỳ tử. Hôm ấy cô dậy sớm, chuẩn bị tắm rửa đi làm. Ông ấy nói là chạy ra tiệm mua tô cháo về cho cô ăn sáng. Cô ở trên lầu, lo trang điểm, thay quần áo, sửa soạn xong bước xuống thì không thấy ông ấy đâu. Thấy tô cháo để trên bàn cô biết là ổng về rồi nên kêu ơi ới kiếm ổng vòng vòng trong nhà nhưng không thấy. Cô bước ra garage thì thấy ổng nằm sấp dưới sàn, không cục cựa. Cô kinh hoảng lật ổng lên thì mặt ổng xám ngoét, tay chân xụi lơ, hai mắt đứng tròng. Cô buông ổng ra chụp cái phone gọi số khẩn. Người ta tới xem xét, bảo là ổng đã chết rồi. Cô không hiểu gì nữa. Tô cháo ổng mua về còn nóng. Có lẽ nay mai cô bán căn nhà này rồi dọn về ở với con cô. Tối cô ngủ trên lầu mà nhiều khi nghe tiếng động dưới nhà như tiếng chân của ổng. Cô sợ lắm, bật đèn sáng trưng khắp nhà không ngủ nghê gì được.
Tôi nghe bà Sue kể chuyện cha tôi mà nghe như chuyện người ta hay đọc trên đài, chuyện xinê, chuyện trên mặt báo. Bà Sue nói:
-Cha cháu có để trong ngân hàng một số tiền tiết kiệm, có ghi người thừa hưởng là cháu nếu ông ấy không còn. Bây giờ mình ăn xong rồi ra ngân hàng làm thủ tục chuyển qua trương mục của cháu. Đồ vật thì ông ấy có mua cho cháu cái đồng hồ và con thỏ bằng sứ.
Tôi hỏi:
-Cháu muốn ra thăm mộ.
Bà Sue yên lặng, mãi một lúc sau mới đáp:
-Ông ấy không có mộ. Cô đã hỏa táng và rải tro xuống hồ. Lúc còn sống ông ấy dặn trước như vậy.
-Hồ gì vậy? Cháu muốn đến đó.
Bà Sue nhìn tôi, hai môi run run:
-Cháu muốn đi thì cô sẽ chỉ đường cho cháu đi, không xa đây lắm đâu. Phần cô thì không bao giờ cô bước ra ngoài đó nữa. Buồn lắm. Vả lại cô nghĩ là ông ấy không có ngoài đó. Ông ấy ở trên trời, hay ở đâu đó, trên mây trên gió. Cô không muốn níu kéo gì ông ấy nữa…
Tối hôm đó tôi ngủ lại trên cái ghế sofa trong phòng khách nhà bà Sue. Bà đem mền gối ra cho tôi và đặt trên bàn một ly nước trà gừng. Bà bảo:” Cháu uống cho ấm bụng đi.” Đôi mắt nhìn xuống của bà làm tôi tủi thân. Tại sao đó không phải là ánh mắt của mẹ tôi hay của cha tôi? Số tiền cha tôi để lại là 7240 đô-la nay đã chuyển qua quyền sở hữu của tôi. Con thỏ bằng sứ thì đã ngủ say trong vali, cái đồng hồ thì tôi đang đeo trên tay. Mặt dạ quang ánh lên màu lân tinh xanh nhạt, buồn như một nỗi đợi. Tôi lấy cái gối úp lên mặt. Tôi nghĩ cha đang nhìn tôi từ tấm ảnh trên nóc tủ. Sự oán trách cha trước đây như cái núi thì bây giờ gom lại thành hòn sỏi lộm cộm trong ruột gan tôi. Ai cũng có nỗi khổ. Cha tôi chắc cũng không hẳn là sung sướng.
Sáng hôm sau tôi từ giã bà Sue ra đi. Bà Sue đưa tôi mảnh giấy chỉ đường:” Cháu cứ theo cái bản đồ cô vẽ là ra tới hồ. Ra van vái cha cháu lần cuối đi. Tội nghiệp ổng. Dù gì cũng là cốt nhục…” Tôi nhét mảnh giấy vào túi, nhìn bà Sue lần cuối rồi lái xe đi. Tôi nghĩ tôi không bao giờ còn gặp lại bà nữa.
Tôi đi theo tấm giấy chỉ đường của bà Sue, vòng vèo qua những con đường vắng vẻ cô đơn, trườn lên tuột xuống nhiều con dốc thì tới đuọc hồ. Tôi bước ra khỏi xe bần thần nhìn xung quanh. Không bóng người lai vãng. Hoang vu đến rợn người. Chỉ có tôi, đối diện là cái hồ và linh hồn của cha tôi thì đang lẩn khuất ở đâu đó. Hồ rộng bao la, được che chắn bởi những dãy núi, nước trong vắt và phẳng phiu như tấm gương lớn đang ngửa mặt lên trời hứng muôn ngàn tia nắng quay cuồng nhảy nhót. Gió phần phật như muốn thổi bay cái nón của tôi và luôn cả tôi nữa. Tôi đi lần xuống mé nước đưa bàn chân khỏa nhẹ trên làn nước lạnh ngắt. Những lượn sóng mơn man vỗ về da thịt tôi. Tôi nghe tiếng thở dài của chính mình:” Không biết cha nằm đâu dưới đáy hồ này?” Có một chiếc xe tuần tra của nhân viên bảo vệ chạy chầm chậm trên con đường dẫn xuống hồ. Thấy tôi người nhân viên ló đầu ra đưa tay chào rồi lái xe đi mất.
Tôi trở lại xe ngồi vào trong đưa tay nhìn đồng hồ-cái đồng hồ cha tôi tặng. Cây kim gió vẫn chuyển động đều đều dưới mặt kính không nói không rằng kéo thời gian giãn ra như bất tận. Tôi thở dài. Tôi đã ở đây hai tiếng đồng hồ rồi. Tôi chờ đợi gì? Một dấu hiệu hiện hữu của cha tôi chăng? Điên thật. Hai mắt tôi nóng rát và cay xè. Tôi phải lục trong giỏ chai nước mắt nhân tạo nhỏ vào cả hai bên. Những giọt dung dịch đó làm tôi thấy mát và dễ chịu.
Hình như tôi có thiếp đi trong xe một chốc thì phải. Tôi không nhớ nữa. Tự nhiên tôi mở mắt ra và thấy mình tỉnh hẳn lại. Mọi hy vọng đã lụi tàn. Thôi. Dù gì thì tới lúc tôi phải đi rồi. Tôi nhìn cái hồ lần cuối rồi nổ máy. Xe vừa dợm chạy đi thì tôi giật bắn mình. Cái radio trong xe tự dưng bật lên, vang ra một bài hát làm tôi sửng sốt. Chưa bao giờ tôi gặp hiện tượng này. Tôi bấm nút tắt. Vừa lái xe đi thì cái radio lại bật lên lần nữa và bài nhạc khi nãy lại tiếp tục. Tim tôi đập thình thịch. Cả người run lên bần bật. Tôi không bao giờ có thói quen nghe radio trong khi lái xe. Có phải là cha tôi đó không? Có phải là cha vừa bật radio lên không đó hả cha?
Nước mắt tôi ứa ra đầm đìa như một phép lạ. Nước mắt của chính cơ thể tôi chứ không phải nước mắt nhân tạo mà tôi phải dùng để thay cho cái hồ lệ từ lâu đã cạn kiệt. Cảnh vật trước mắt tôi mờ đi. Tôi vừa lái xe vừa khóc. Chiếc xe nảy lưng tưng trên con đường gập ghềnh. Bài nhạc vẫn vọng ra, tràn trề, da diết. Những cái cây bên đường nhạt nhòa trong nước mắt. Cái hồ nơi giữ tro than của cha đã ở lại sau lưng tôi, càng lúc càng xa dần. Tự nhiên tôi nghĩ dưới đáy hồ kia cha tôi dường như vừa khép mắt lại và mắt ông cũng đầm đìa lệ như mắt tôi bây giờ…
Phương Nghi