Nguyễn Phước Bửu Nam: Lũ lụt và thủy điện (*)

Tác giả: Nguyễn Phước Bửu Nam
Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ kỉ lục chưa từng có ngày 19/11.
Hình và thông tin
từ báo Người Lao Động
Thủy điện Đắc Mi 4 xả lũ với cường độ lớn về hạ du những
ngày cuối tháng 10. Hình và thông tin từ Báo CAND Đà Nẵng

Lũ Lụt ở Phú Yên Cũ vừa qua. Thủ phạm và trách nhiệm

1) Trận lũ lịch sử càn quét khu vực Phú Yên cũ (nay thuộc Đắk Lắk) vừa qua là một thảm kịch kinh hoàng, không chỉ do thiên tai mà còn do sự bị động khủng khiếp của con người. Hậu quả là không thể đong đếm: 63 người thiệt mạng, hàng vạn ngôi nhà bị nhấn chìm, hàng chục vạn đồ đạc, dụng cụ, mùa màng, gia cầm, gia súc và toàn bộ vùng quê yên bình biến thành cảnh hoang tàn.

2) Thủ phạm trực tiếp là Thủy điện Sông Ba Hạ. Trong cơn cuồng nộ của nước về, nhà máy này đã thực hiện mức xả lũ kỷ lục 16.100 m³/giây. Câu hỏi lớn đặt ra là: Tại sao thủy điện không chủ động xả trước, hay phải chăng đã ưu tiên tích nước vì lợi ích kinh tế, để rồi phải xả ồ ạt cứu đập, đẩy hàng ngàn sinh mạng xuống lằn ranh sinh tử?

Sự im lặng và né tránh của lãnh đạo thủy điện trước báo chí truyền thông (Báo Pháp Luật) chỉ càng làm tăng thêm sự phẫn nộ.

3) Trách nhiệm của chính quyền cơ sở càng thêm nặng nề bởi sự mâu thuẫn trắng trợn trong khâu cảnh báo. Lãnh đạo cấp xã, phường khẳng định thông báo xả lũ được cập nhật từng giờ, thậm chí 15 phút một lần, qua mọi kênh Zalo, loa đài. Thế nhưng, người dân vùng hạ lưu đồng loạt kêu cứu: Họ chỉ nhận được cảnh báo “xả lũ bình thường” và hoàn toàn không lường trước được mức xả lũ kinh hoàng trên 16.000 m³/giây này.

4) Đây là thất bại cay đắng của hệ thống. Thông tin về lưu lượng xả lịch sử đã không được truyền tải một cách hiệu quả, khiến người dân trở tay không kịp khi nước dâng lên cả mét chỉ trong một giờ.

5) Việc Chủ tịch tỉnh Đắk Lắk thừa nhận rằng công tác dự báo “không có trong kịch bản” đã vén màn cho thấy sự chủ quan và thiếu khả năng ứng phó với thiên tai cực đoan.

6)Lúc này, không thể chỉ đổ lỗi cho “lũ cực đoan.” Trách nhiệm phải được làm rõ từ việc vận hành thủy điện đến sự đứt gãy trong chuỗi cảnh báo của chính quyền.

7) Thảm kịch này cần phải là bài học xương máu bên cạnh thiên tai khủng khiếp còn là sự thiếu năng lực, thiếu khả năng ứng phó, thiếu trách nhiệm của chính quyền các cấp và sự vô nhân tàn bạo của chủ đầu tư, chủ tịch hội đồng quản trị và người vận hành Đập Thuỷ Điện Sông Ba Hạ

*

Tìm hiểu Tổng Quan Số Lượng Thủy Điện Miền Trung, Tây Nguyên và việc ảnh hưởng tới lũ lụt trong thời tiết cực đoan

1) Khu vực Miền Trung và Tây Nguyên được xem là địa bàn có mật độ thủy điện dày đặc nhất cả nước do điều kiện địa hình dốc và hệ thống sông ngòi ngắn.

-Phân loại Công suất (ước tính) Vị trí phân bố chủ yếu:

-Thủy điện lớn và vừa(>30 MW) Chiếm phần nhỏ so với cả nước -Tây Nguyên (Yaly, Sê San, Đồng Nai -Bắc Trung Bộ (Hương Điền, Bình Điền).

Thủy điện nhỏ (<30 MW) Chiếm phần lớn về số lượng Phân tán dày đặc ở các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên.

2) Số Lượng Ước Tính (Tính đến năm 2025)

Do số lượng dự án thủy điện nhỏ được cấp phép và xây dựng rất lớn, không có một con số cố định và chính thức cho tổng số dự án đang hoạt động. Tuy nhiên, có thể ước tính như sau:

• Tổng số lượng nhà máy thủy điện (đang vận hành và được cấp phép) ở Miền Trung và Tây Nguyên: Lên đến vài trăm dự án (có nguồn ước tính trên 500 dự án lớn nhỏ trên toàn quốc, và khu vực này chiếm tỷ lệ rất cao).

• Tổng công suất Thủy điện nhỏ (<30 MW): Ước tính khoảng 3.000 MW trên cả nước (theo báo cáo gần đây), và phần lớn các dự án này tập trung tại Tây Nguyên và Miền Trung.

• Mật độ: Một số tỉnh miền Trung có mật độ thủy điện nhỏ đặc biệt cao, ví dụ:

• Quảng Nam: Riêng tỉnh này đã có đến 42 dự án thủy điện lớn nhỏ, tác động mạnh mẽ đến hạ du.

3) Thủy điện nhỏ (<30 MW) chiếm phần lớn số lượng các công trình tại khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, mặc dù tổng công suất đóng góp vào lưới điện quốc gia không cao bằng các nhà máy thủy điện lớn ở Tây Bắc.

4) Đây chính là nhóm dự án đang gây ra nhiều tác hại về tác động sinh thái và lũ lụt, nhất là hệ quả nhãn tiền là các trận lũ khủng khiếp cuối năm 2025 vừa rồi

5) Vì vậy cần điều tra lại, rà soát và cân nhắc lợi và hại về mặt kinh tế, xã hội, chính trị của hệ thống thủy điện này, đánh giá lại chúng một cách khách quan, khoa học và có những phương án gần và xa để điều hành, xử lý chúng, nhất là lúc thời tiết ngày càng cực đoan, do áp lực biến đổi khí hậu càng ngày càng nặng nề.

*

Thủy điện và quả bom nước-Rủi ro Lũ lụt: Cần Cơ chế Giám sát và Phối hợp Liên hồ

1) Đợt lũ lụt bất thường gần đây tại miền Trung và Tây Nguyên đã phơi bày những rủi ro lớn từ sự tác động kép của biến đổi khí hậu và quản lý hệ thống thủy điện.

2) Tây Nguyên hiện có khoảng 220 nhà máy thủy điện, trong đó riêng Lâm Đồng đã có 58 công trình (tổng công suất 2.325,31MW), được xây dựng theo hình thức thủy điện bậc thang trên các dòng sông ngắn, dốc.

3) Vấn đề cốt lõi không chỉ là việc ưu tiên tích nước làm thu hẹp dung tích phòng lũ, mà còn là lỗi vận hành và phối hợp. Khi mưa cực đoan xảy ra, sự kiện xả lũ khẩn cấp, như hồ Đại Ninh xả 2.500m³/s, cộng dồn với các hồ khác đã tạo ra hiện tượng “lũ chồng lũ” tàn khốc ở hạ du.

4) Về mặt quản lý, cơ chế hiện hành cho phép các doanh nghiệp thủy điện hoạt động gần như là “sân chơi riêng”. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu cơ quan chuyên môn độc lập giám sát quy trình vận hành và xả lũ theo thời gian thực.

5) Để kiểm soát lũ hiệu quả, cần khẩn trương thiết lập Cơ chế Phối hợp Liên hồ chứa theo thời gian thực, đảm bảo việc xả lũ của các hồ trong cùng lưu vực phải đồng bộ, dựa trên dữ liệu dự báo chung và lợi ích tổng thể của hạ du.

6) Đồng thời, phải xây dựng một Hội đồng Giám sát Thủy lợi độc lập để kiểm tra, đánh giá trách nhiệm và xử lý thiệt nghiêm các trường hợp vi phạm quy trình xả lũ, nhằm ngăn chặn hệ thống thủy điện dày đặc trở thành “quả bom nước” treo lơ lửng khi thiên tai cực đoan xảy ra.

Nguyễn Phước Bửu Nam

(*) Tựa do Tạp chí Thế Kỷ Mới đặt.

Có thể bạn cũng quan tâm