Truyện ngắn Ngự Thuyết: Con ếch

Tác giả: Ngự Thuyết
Hình minh họa: AI-generated.

Một sáng chủ nhật.

Ngoài kia, trước mặt nhà, là con đường nhựa ít xe cộ qua lại.  Đằng sau nhà, một mảnh vườn nhỏ thiếu chăm sóc, cây cối xác xơ, cỏ mọc lan lên những luống hoa èo uột. Chỉ có hai người trong phòng khách. Họ ngồi đối diện nhau qua một cái bàn bé nhỏ, mặt bàn được phủ lên bằng tấm kính dày. Cạnh cái bàn là chiếc ghế nệm 3 chỗ ngồi đặt trước cái TV treo sát tường. Những vách tường thiếu trang hoàng, không có tranh ảnh, không có cả cái đồng hồ treo tường. Và một bàn computer nằm cạnh chiếc ghế nệm. Cái phòng khách lạnh lẽo chỉ có thế thôi.

Họ là hai vợ chồng đã lớn tuổi, mệt nhọc, một sáng Chủ Nhật, chẳng biết làm gì, ngồi im lặng khá lâu. Người này chờ người kia một câu nói nào đó tình cờ bung ra.

Như thường lệ, bà “ngứa miệng” nói trước:

“Từ ngày vợ chồng tụi con nó dọn đi tiểu bang khác, không còn ai lui tới đây nữa. Chán quá ông ơi. Mà sao ông cứ tỉnh bơ như vậy? Chẳng ra làm sao cả?”       

“Không tỉnh bơ thì làm cái trò gì bây giờ? Nhưng mọi chuyện đều do bà cả. Bà bảo bà cần  yên tĩnh, nên mới về đây.”

Như chiếc máy vừa khởi động, bà mồm năm miệng mười:

“Tui bảo khi nào? Đừng đổ hô. Đừng gắp lửa bỏ tay người. Tại ông chứ không phải tại tui. Tui cần yên tĩnh để làm cái thá gì? Ông mới cần. Để khi về hưu rảnh rỗi ông được im lặng đọc sách, đọc vở, lên mạng, lên meo. Vậy mà bây giờ nói ngược không biết ngượng. Hay ông bắt đầu lẫn rồi?”

Ông chẳng nhớ có nói như vậy hay không, dường như không, nhưng không muốn cãi cọ lôi thôi. Ông thừa biết cãi vô ích. Cho dù có người thứ ba làm chứng từ đầu tới cuối đi nữa, cũng khó mong có thể thấy được lẽ phải khác với định kiến của bà, vì bà luôn luôn là lẽ phải. Huống hồ chỉ có hai ông bà già dở hơi ngồi bên nhau, ông làm sao cãi cho lại. Hãy im lặng chịu thua như mọi khi là thượng sách.

Bà được thể nói tiếp:

“Bây giờ ông đã về hưu. Ông đã nhớ rõ chưa, chỉ một mình ông thích dọn nhà tới cái xó xỉnh khốn nạn này, còn làm bộ bàn trước với tui vài câu chiếu lệ. Ông tưởng tui không biết cái trò gian manh đó sao? Mấy tên bạn chết dịch của ông đâu cả, sao ông không dọn nhà đến gần tụi đó, còn hơn tới nơi này không có người Việt nào cả. Ở đây tui câm, điếc, đui. Tiếng Anh, tiếng u nghe như vịt nghe sấm.”

Ông cười gượng:

“Thôi bà ơi. Sống tại nước người ta thì phải học tiếng của người ta. Câm, điếc, đui cũng tại mình không chịu …”

Bà lồng lộn ngắt lời:

“Không chịu cái gi? Hả? Hả? Ông muốn nói tui ngu si không chịu học tiếng Anh phải không? Sắp chui xuống lỗ mà còn học với hành. Thôi, thôi, ông đừng giở giọng dạy đời nữa, nghe điếc cái con ráy lắm.”

Nói xong, bà hằm hằm quay người đi nhanh xuống nhà bếp.

Ông ngồi yên một mình ngẫm nghĩ. Nhớ thời trẻ. Có năng khiếu về hội họa, tâm hồn thơ mộng,  lòng đầy hoài bão. Từ Sài Gòn ra Huế ghi danh học tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, anh “hạ quyết tâm” học hành hết sức chăm chỉ cho mau thành tài rồi nhanh chóng trở lại Sài Gòn hợp tác với người bạn thân cùng chí hướng hiện có một xưởng vẽ khá thành công.

Chỉ một thời gian ngắn, trước cái khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, cổ kính và có phần huyền bí của Huế, anh có linh cảm rằng mình sẽ bị buộc chặt vào chốn cố đô này. Chỉ vì cái ngoại cảnh đó thôi sao? Anh bật cười tự nhủ nếu không có mấy thằng bạn cũng từ trong Nam ra, thêm mấy thằng bản địa hơi khó tính, hay cà khịa, nhưng rồi lâu ngày  cũng thông cảm và thân thiết nhau, và đặc biệt nhất là nếu không có Thanh, chắc gì anh đã  yêu mến xứ Huế đến thế. Vâng, đối với anh, yếu tố “con người” quan trọng hơn mọi thứ trên cõi đời này.

Nhớ hồi đó tới thăm một người bạn cùng lớp. Cô em gái của thằng bạn lấp ló sau tấm rèm thưa khi ẩn khi hiện. Tuy thế, thỉnh thoảng anh cũng có dịp chạm mặt người đẹp, không hề chạm mắt — cô gái không bao giờ nhìn thẳng vào anh. Vậy mà lạ quá, lúc nào anh cũng có cảm tưởng cô luôn luôn “bày binh bố trận” đối phó bằng mắt. Anh kín đáo nhìn chiếc lưng eo thon thả, cô gái ngoảnh người nhìn vào bức tranh trên tường khiến suối tóc đổ xuống che khuất; anh  ngắm  cánh tay trần lơ thơ những sợi lông tơ, cô nhẹ nhàng vớ chiếc quạt giấy nay bất cứ thứ gì gần đó dùng như cái khiêng chống đỡ. Đôi lúc anh đánh bạo nhìn thẳng vào đôi mắt to, đẹp, có khi trong veo, có khi gợn sóng, cô nhất quyết không nhìn lại, vì đôi mắt như đang bận để ý tới một mục tiêu ở vô cực.  

Và cô im lặng như cái bóng, đến nỗi đã tới nhà chơi với bạn nhiều lần trong gần một năm học, anh vẫn chưa được nghe cô nói một câu nào. Hôm tới từ biệt bạn để vào Nam nghỉ mấy tháng hè, may mắn cho anh, cô ở nhà một mình.   

“Ánh của ém đí vặng cọ chút viềc … Sắp vê. [1]”

Giọng nói thỏ thẻ, trầm bổng, êm ái như tiếng ru, tiếng hát. Khuôn mặt xinh đẹp như có hào quang bao quanh. Và nhất là đôi mắt màu da trời mùa thu lúc thì trong veo như buổi sớm mai, lúc thì âm u như buổi chiều tà.

Anh sững sờ trong giây lát, cố trấn tĩnh hỏi thêm:

“Mấy giờ ảnh về?”

“Ém khống biếc. Ánh khống dằng do chí cả.”[2]

Chỉ có thế, cô gái đã hút hồn anh. Anh tự hỏi tại sao tình yêu đến nhanh chóng như thế. Không có lời giải đáp. Hay như người ta thường nói, Yêu là điên. Nhưng anh biết rằng tiếng nói của cô chắc chắn có phần đóng góp quan trọng. Anh yêu giọng nói, lời nói đã đành, như trong một câu thơ mà anh không bao giờ quên, Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời [3] Ngay cả lối nói sai chính tả như mấc mác (mất mát), buồng cháng (buồn chán) v.v…, anh cũng thấy sao nó hay ho, dễ thương quá. Nó bay bổng, lơ lửng, thả lỏng. Nó kéo dài như giọng hát dù lên cao, xuống thấp, hay ngân nga, vẫn không bị mắc kẹt bởi một cố gắng nhỏ nhoi nào khi phát âm. Tiếng hát vang vang, tiếng nói buông buông. Một lần anh nghe từ đài phát thanh tiếng hát khá hay của một nữ ca sĩ Huế. Sẽ hay hơn biết bao nếu cô đừng cố gắng hát đúng chính tả. Thay vì “Rồi anh đi biền biệt để Huế nhớ Huế buồn…” , cô hãy hát cho tôi nghe: “Rồi anh đi biềng biệc để Huế nhớ Huế buồng…” Nghe nó mông lung, mênh mang. 

Thế là sau những tuần lễ kế tiếp đến thăm Thanh, cô em của bạn, anh hủy bỏ chuyến vào Nam nghỉ hè. Chẳng bao lâu, một đám cưới thân mật và đầy yêu thương được tổ chức vội vàng. Tiếp theo là những ngày thanh bình ngắn ngủi. Anh vào quân đội theo lệnh động viên. Thua trận, tù đày, vượt biên. Trải bao gian khổ. Cuối cùng cả gia đình gồm bố mẹ, tức là anh và vợ, và hai đứa con đến được cái xứ sở tự do và nhân đạo này.

Ông nhìn theo bà khi bà đi xuống nhà bếp, băn khoăn. Ông đọc đâu đấy trong một cuốn sách mà ông không nhớ tên rằng vợ chồng sống với nhau muốn được lâu dài thì thỉnh thoảng phải cãi cọ nhau. Tranh cãi mới thấy được nhược điểm, khuyết điểm, hay sự sai sót của mỗi người, rồi từ đó tùy cơ sửa đổi.

Ông rất thích cái nhận xét đó, và mang ra áp dụng ngay. Có lẽ áp dụng hơi quá đà cho nên cãi cọ hoài lâu ngày biến thành thói quen, biến thành chất ma túy mỗi ngày mỗi ăn sâu vào lòng người. Lời qua tiếng lại mỗi ngày mỗi gay gắt, đôc địa, và thô bỉ. Nhất là về phần bà. Phái nữ vốn nhạy cảm, hấp thụ cái mới nhanh chóng, ông  ngẫm nghĩ.  Ô, có lẽ nhận xét này cần phải xem lại chăng, vì người ta vẫn thường nói đàn bà thủ cựu hơn đàn ông.

Cơn nghiện cãi cọ như ma túy đó, may thay, chưa trầm trọng lắm. Quá nặng lời với nhau, hay đúng hơn, bà thường nặng lời với ông, nhưng tình yêu, hay chí ít tình nghĩa vợ chồng, chưa vì thế mà chết yểu. Riêng ông, dường như không thể nào quên Thanh của ngày xưa dù nay mái tóc đó đã bạc màu, phờ phạc, con mắt đã mờ đục, mệt mỏi, tiếng nói đã khàn khàn, uể oải. Ông thường ví giọng nói của bà là một dòng nước trong dòng sông trôi. Khi còn trên  nguồn thì róc rách, ru êm, nhưng khi lên thác xuống ghềnh ào ào, bão tố.

Dần dần quen thuộc với những câu nói nặng lời của bà, ông không tìm cách đối phó nữa; trái lại im lặng nghe, và thấy lòng phơi phới, không gợn chút trách móc hay oán giận. Chẳng hạn khi hai người cùng nhau đi đây đó, ông cầm tay lái, bà ngồi ghế cạnh.  Ngay cả khi có người thứ ba cùng đi, ngồi ở ghế sau. Tiếng nói của bà dõng dạc, gay gắt, đôi khi pha chút giận dữ:

“Cái ông này. Chuyển qua lane giữa ngay lập tức.”

“Sao mà lù đù dữ vậy? Đạp thêm chút gas đi. Hay là muốn nghe xe sau nó bấm còi chửi bới điếc lỗ tai.”

“Quẹo phải. A, lộn. Quẹo trái. Không, cũng không phải. Cứ chạy thẳng thêm một đoạn nữa rồi quẹo phải. A, lộn, quẹo trái. Nghe rõ chưa?”

“Đạp thắng ngay. Sợ mòn thắng hả? Lỡ mòn thì đừng hà tiện mà không thay cái thắng khác. Còn hơn để xẩy ra tai nạn.”

“Sao tối dạ thế. Sắp lẫn rồi phải không? Đi đường này cả trăm, cả ngàn lần mà còn hỏi đường nào đây?”

“Đừng mở máy lạnh ngay, hơi độc xì ra. Muốn chết sớm hả? Hạ cửa kính xuống ngay trước đã. Chỉ rứa thôi nói không biết bao nhiêu lần mà không nhớ nổi.”

“Lại quên tắt máy. Thế nào cũng có ngày bị tụi ăn trộm nó lấy mất xe, chớ không phải chơi mô.”

“Ông không thấy cái xe dơ quá trời hay sao? Dơ nhất vùng Quận Cam này. Coi chừng có ngày cảnh sát phạt. Chốc nữa về nhớ đem xe đi rửa nghe chưa. Nhưng phải lấy vòi nước xịt trước cho bớt dơ dáy, cho đỡ ngứa mắt người ta. Nếu không, người ta có thể từ chối … Từ chối cái gì hả? Lạ thiệt, nói thế mà không chịu hiểu. Hả? hả?”

“Vân vân.”

Trước kia bà còn có thể lái xe đi gần, chẳng hạn đi chợ, đi shopping. Sau mấy lần quẹt xe người ta, và một lần đụng xe nặng, phải nhập viện hơn một tháng trời, bà không dám lái xe nữa. Đúng ra, bị cấm lái. Thì đóng vai “lý thuyết gia”, ngồi cạnh ông chỉ dẫn. 

Ông để ý gần đây bà đay nghiến nhiều hơn hẳn. Tại sao vậy nhỉ?  Có lẽ về vùng này buồn quá, cả ngày không biết làm gì, bà nổi cáu, giận cá chém thớt.

 Những khi có việc gấp, không quan trọng, ông lái xe một mình. Liền cảm thấy thiếu thiếu một cái gì rất thân thương. Ông lẩm bẩm tự hỏi và nhận ra rằng ông đang nhớ những lời quát mắng của bà. Một câu nhận xét khá thú vị của ai đó chợt hiện lên trong trí: Đời người là tổng số những trải nghiệm về thời tiết. Ông muốn thay thế hai chữ “thời tiết” bằng, bằng chữ nào nhỉ? Tập khí? Tập quán? Hay một cách đơn giản: Thói quen? Hay đúng hơn nữa: Chịu đựng, phục tùng.

Lại nữa, thế ra từ trước đến giờ mình nghĩ sai, ông lẩm bẩm, hay chí ít là đối với bà. Cứ tưởng rằng tuổi già cần nơi yên tĩnh để di dưỡng tinh thần, nay bà già rồi, ông đoán rằng bà  cần những hoạt động vui nhộn, ồn ào, náo nhiệt. Để thấy cuộc đời tươi thắm đang diễn ra trước mắt.  

Phải chi có những ngôi chợ xúm xít nhau chẳng hạn như nhóm chợ Bàn Cờ, chợ Vườn Chuối, chợ Đủi, chợ Cá Trần Quốc Toản của Sài Gòn xưa trước 1975, để bà có thể đi bộ hết chợ này qua chợ khác, tha hồ  lựa chọn các thứ, thêm bớt, trả giá — xách ngược một con gà trống thiến lên áng chừng nó nặng mấy ký, cho vui tay thế thôi; ngắm nghía mớ tôm tươi rói đang nhảy nhót tung tăng trong chiếc rá của một em bé ngồi trệt giữa lối đi, có lẽ ba nó vừa câu được từ một con sông gần đấy; mua mấy bó rau muống, bông bí, rau thơm, thịt heo, cá bống, cá rô, cá giếc, mọi thứ đều được gói trong lá chuối xanh, v.v…

Hay chẳng mua cái gì cả, đi chợ cốt để gặp mấy bà già trầu ngồi ở một góc chợ ít người qua lại, nói chuyện “vòng vo tam quốc” với nhau, “hết chuyện nọ xọ qua chuyện tê” không bao giờ dứt, và những chuỗi cười ròn rã nghe như tiếng chim cu gáy trong quá vãng, một buổi trưa hè êm ả, vang lên từng hồi từ lũy tre làng vọng lại.  

Nay qua đây, bà chẳng biết làm gì, cũng chẳng biết đi đâu cả. Con cái đã dọn đi nơi khác, bạn bè xa lánh. Chỉ còn một mình ông để bà ngày ngày chạm trán, gặp gỡ, gần gũi, và gây gổ.  

*

Một sáng chủ nhật, ông lái xe đi đổ xăng, tiện thể ghé một quán cà phê vắng khách, định mua hai ly cà phê sữa đá mang về cùng uống với bà. Vừa vào quán thì ngay sau đó một người có vẻ trẻ trung hơn ông, cùng vào theo. Ông đang nhìn quanh tìm một chỗ ngồi tạm, người đàn ông kia nói ngay:

“Tôi có chuyện này muốn nói với anh, xin anh cho phép. Tôi đoán anh là người Việt Nam?”

Ông ngạc nhiên nhưng cũng vui vẻ đáp:

“Vâng, tôi xin nghe.”

“Tôi không bao giờ đi uống cà phê một mình. Luôn luôn có bà xã tôi đi cùng. Từ ngày không có bà, tôi không muốn tới cái quán này nữa. Nhưng ở nhà buồn quá, hôm nay mới trở lại đây thì gặp anh. Cho nên tôi mong được ngồi chung bàn với anh cho vui nhé. Tôi xin được làm khổ chủ.”

Ông ngồi đại xuống một trong hai chiếc ghế đối diện nhau qua cái bàn nhỏ đặt ngay gần lối đi. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, thì người kia cũng ngồi xuống chiếc ghế còn lại, nở một nụ cười dễ dãi, thân thiện, tự giới thiệu:

“Tôi tên là Thiện. Xin anh cho biết quý danh.”

“Tôi Tạo.”

“Từ ngày vợ tôi đi …” Ông Thiện ngập ngừng.

Lại chuyện gia đình lôi thôi, lại không chịu khó nhường nhịn vợ như mình, lại ly dị rồi chăng, ông ngẫm nghĩ. Và buột miệng:

“Xin chia buồn cùng anh.”

“Vâng, thú thật cũng có buồn. Buồn nhiều chứ. Bên nhau cũng tôi có lúc quên bà, nhưng xa nhau mới thấy trống trải, và nhớ. Bà ấy đi Việt Nam hơn 2 tuần rồi. Tôi đếm từng ngày, từng giờ. Đúng 1 tuần và 6 ngày nữa bà trở lại.”

Ô, thế mà mình tưởng họ bỏ nhau. Bà ấy quả là người may mắn, ông thầm nghĩ.

Vậy là ông có một người bạn mới. Về tới nhà, ông cho bà biết câu chuyện, có hẹn gặp nhau tại quán cà phê đó vào tuần tới. Vợ ông vui vẻ đồng ý. Hai bà vợ có lẽ sẽ cùng đến.  

*

“Việt Nam bây giờ ra răng? Chị về ở mô?”

“Bây giờ thay đổi nhiều lắm. Nhiều nơi trông lạ hoắc, mình như chưa bao giờ tới. Và kẹt xe kinh khủng.”

Bà Tạo lên giọng:

“Tui có hỏi chị về ở mô, ở đâu nữa mà? Chị có nhớ tui nói rứa không, hả?”

“Dạ, dạ, tôi xin khai báo. Tôi ở Sài Gòn, Bình Thạnh.”

“Tui thì không còn bà con thân thiết nào bên đó cả, nên từ ngày ra đi cho đến chừ, đến bây giờ, tui chưa … a, a, cái ông này, để tui nói cho hết câu đã chớ …  cho nên tui chưa muốn về. Xong rồi đó, muốn nói chi ông cứ nói đi. Ngắn gọn thôi nghe, để người khác nói nữa chớ. A, nhưng để tui hỏi tiếp một câu nữa. Chị ở Sài Gòn thôi sao? Tức là không đi thăm mấy nơi khác? Rứa thì không đáng đồng tiền bát gạo. Nghĩa là không bõ công.”

Bà Thiện tỏ vẻ ngạc nhiên, miễn cưỡng đáp:

“Tôi cũng có đi thăm vài nơi khác, chứ sao lại không. Như Nha Trang, Hội An, Đà Nẵng. Chỉ chừng ấy thôi mà đã hết cả ngày giờ.”

Bà Tạo tỏ vẻ bất mãn:

“Răng không chịu đi thăm Huế? Huế có nhiều chỗ cũng đẹp, nghĩa là đẹp lắm, chớ không phải chơi mô. Chẳng hạn. A,a, lại cái ông này muốn xía vô ngang xương. Tui đang nói mà, không thấy sao? … Mà răng chị về một mình không cho anh đi theo với. Ai lại bỏ anh ở đây không có người chăm lo cơm, nước, giặt giũ. Mình là người nội trợ, phải biết lo trước mọi chuyện, phải biết quán xuyến …”

Bà Thiện mím môi, quay mặt qua nói với chồng:

“Chuyến sau, khoảng cuối năm, anh sẽ cùng đi với em nhé, như đã hứa. Rồi sẽ ra thăm miền Trung, miền Bắc …”

Ông Thiện chận lại:  

“Anh hứa đại thế thôi. Nhưng nghĩ lại, anh chưa muốn về.”

Nghe chồng nói thế, bà Thiện ngồi im thin thít. Thấy đây là dịp có thể tham gia vào câu chuyện mà không bị vợ  cản trở, ông Tạo lên tiếng:

“Tôi đồng ý với anh Thiện. Chưa nên … ”

Bà Tạo chận lại:

“A cái ông này. Chuyện nớ là chuyện hệ trọng, phải tính toán với tui cho thiệt kỹ, chớ không phải chơi đâu.  ‘Nói trước bước không rời’, hiểu chưa.”

Câu chuyện tại một quán ăn Mễ giữa hai căp vợ chồng mới quen nhau, mới gặp nhau lần đầu tiên, kéo dài chỉ khoảng nửa tiếng. Bà Thiện nôn nóng bảo sực nhớ có việc cần phải về ngay. Trước khi chia tay, bà Tạo không quên dặn dò:

“Vùng ni tưởng không có người Việt Nam nào cả ngoài vợ chồng tui. Nay may mắn găp anh chị, tui nói thiệt là tui vui quá. Tuần sau, Thứ Bảy, tụi tui tới nhà thăm anh chị trước. Tuần sau nữa tới phiên anh chị, tính sau.”

*

Về đến nhà, ông Tạo gợi chuyện với bà ngay:

“Bà thấy sao? Vợ chồng Thiện coi bộ cũng được được đó phải không? Vậy là từ nay mình có bạn mới, xin bà OK nhé …”

Bà ngắt lời:

“A cái ông này, làm như tui khó tính lắm sao. Mấy năm trước đây cũng đàn đúm bạn bè, cũng từ ông mà ra. Rồi đùng một cái, tụi đó bỗng nhiên quay xe trở mặt chạy mất đất. Nay … chớ vội. Để tui thử chấm điểm. Ông chồng 6 điểm. 6 trên 10. Mụ vợ được hơn một chút. Trông hiền lành, thiệt thà, dễ thương.” Nói một mình. “Còn trẻ mỏ, lanh lợi. Chắc chắn biết lái xe.” 

Bỗng  điện thoại cầm tay reo, ông bắt nghe.

“Anh Tạo đó hả? Tôi Thiện đây.”

Nghe nói thế, bà Tạo vội giành cái phôn trong tay chồng:

“Alô, alô, tui nghe đây anh. Anh nhận ra tui không?”

“Vâng, thưa chị, tôi nhận ra ngay. Hồi nãy chị có nói Thứ Bảy anh chị tới nhà chơi. Chủ Nhật được không? Tôi coi lịch thì thấy hôm Thứ bảy có hẹn với bác sĩ.”

“Vợ chồng tui ngày nào cũng rảnh. Vâng, Chủ Nhật thì Chủ Nhật, hay ngày nào cũng được, miễn là phải nói trước 24 tiếng đồng hồ để tụi tui sửa soạn.”

“OK. Chào chị.”

Nghe xong, thay vì đưa cái điện thoại cầm tay lại cho ông, bà đặt nó lên mặt bàn ngay trước mặt bà, chưa kịp bấm cái nút tắt máy. Bỗng tiếng nói rất nhỏ, từ cái điện thoại đó, vo ve như muỗi kêu, nhưng nghe khá rõ ràng. Ông vói tay định tắt  máy, nhưng bà cản, ra dấu muốn nghe lén.  

“Anh ừ rồi hả? Nhưng anh thấy sao? Thì cũng tốt thôi. Vùng này không có người Việt mình, thêm bạn đỡ buồn. Nhưng em ghét cái con mẹ bỉ ổi đó lắm. Chồng chưa kịp nói, đã nhảy xổ vô miệng người ta. Kệ họ, để ý làm chi cho mệt. Nhưng gặp nhau đâu phải để nghe người ta mắng nhau. Với lại biết đâu có ngày mình cũng sẽ là nạn nhân. Em định nói gì? Em muốn nói có ngày mình cũng bị mắng tưới hột sen không chừng. Ô, đâu có thể nào như thế được. Nhưng thôi, nếu  em không thích, anh sẽ có cách từ chối cuộc gặp nhau vào Chủ Nhật này. Không, em không muốn giao thiệp với họ nữa. A, hơi phiền đó. Để coi…”

Nghe đến đấy mặt bà nhăn riết, vội vàng tắt máy, ném mạnh cái cell phone lên chiếc ghế dựa cạnh ông, lầm bầm chửi rủa tục tằn trong cổ họng, len lén nhìn ông trong giây lát, rồi đứng dậy lặng lẽ rời khỏi phòng khách, đi nhanh vào phòng ngủ.

Ông ngồi một mình rất lâu trước ly cà phê uống dở, đã nguội lạnh, trầm ngâm suy nghĩ. Trong một khoảnh khắc ngắn, quá khứ bỗng hiện về rõ như trong một cuốn phim quay chậm. Từ cái thuở ban đầu đầy yêu đương của cuộc sống đôi lứa thật thơ mộng, êm đềm, đến giai đoạn chịu đựng những thay đổi bất thường của vợ, rồi tự nguyện phục tùng mọi đòi hỏi vô lý mà ông xem như mệnh lệnh, những hà hiếp mà ông sẵn sàng chấp nhận. Theo quán tính, bà  đối xử quá thô bạo không những chỉ đối với riêng mình mà đối với cả bạn bè. Cho nên gặp nhau không mấy thoải mái khi có mặt bà, mà bà thì hầu như luôn luôn có mặt. Họ không muốn chia sẻ chuyện vui, chuyện buồn như trước kia. Họ xa lánh dần. Cả năm trời không gọi điện thoại hỏi thăm nhau một lần. 

Nhìn lại, ông thảng thốt thấy tất cả cái phi lý của lối sống đó.

Bỗng ông nghe như có tiếng nói âm thầm vang vang trong đầu óc mụ mị lâu ngày. Mày là một con ếch – con ếch bị luộc. Người ta không muốn thấy mày vùng vẫy khi nhiệt độ tăng lên  đột ngột, thì chỉ có việc cho mày vào nồi, đổ nước lút đầu mày, đun nước nóng lên từ từ, chầm chậm. Mày sẽ nhanh chóng làm quen với nồi nước nóng dần. Đến khi nước sôi lên sùng sục, mày cũng nằm im ru, vì đã bị luộc chín từ lúc nào không biết.”

Ngồi một mình khá lâu có ý chờ vợ bước ra “nói xa nói gần”, “nói cạnh nói khóe” về câu chuyện vừa mới nghe lén trên cell phone, nhưng ông ngạc nhiên không thấy bà đâu cả. Thông thường, những chuyện như thế dễ khiến bà nổi cơn cơn thịnh nộ, giận dữ như lửa rơm cháy bùng nhanh chóng, rồi cũng nhanh chóng tàn lụi. Hay là bà đang hồi tâm suy nghĩ lại về cách hành xử xưa nay của mình,  cho nên đang còn ngại ngùng chưa muốn bày tỏ ngay cho cho chồng biết? Hay cũng có thể bà đang đánh một giấc ngủ ngon lành?

Ông ngồi một mình loay hoay mãi, suy nghĩ lung tung, rối rắm, không đâu vào đâu. Rồi mặc cho tâm trí đi lang thang. Những năm tháng cũ lại lần lượt diễn ra trước mắt.

Thời gian êm đềm ở Huế, tiếp đến là những ngày đầy biến động tại Sài Gòn. Cuối cùng Miền Nam tự do sụp đổ. Thế là mất tất cả. Một liên tưởng bỗng hiện lên trong tâm trí. Mình vượt biển qua đây lâu nay sống với vợ nhưng bị kềm kẹp đủ thứ, thì cũng chẳng hơn gì một người dân yếu đuối, hèn mọn bên nhà sống như con ếch bị luộc trong một nước dưới chế độ độc tài.

Ô hay, lại so sánh lệch lạc rồi, ông tự bảo. Một bên là cảm tính, là thói quen, là tự nguyện; bên kia là sách lược, là tham tàn, là gông cùm.

Ngự Thuyết

—————

[1] “Ánh của ém đí vặng cọ chút viềc … Sắp vê” (Anh của em đi vắng có chút việc, sắp về). Từ không dấu được phát âm gần như thêm dấu sắc; từ có dấu sắc thì nghiêng về dấu nặng (trừ những từ  kết thúc bằng chữ c như bác, bắc, chữ t như bát, bắt, chữ ch như bách, chữ p như báp, bắp,  thì được phát âm như những miền khác. Chẳng hạn người Huế vẫn nói Nước Pháp, chứ không phải Nược Phạp. Nhiều ca sĩ bắt chước giọng Huế hát: … “Thuyền trôi trên bến nược Hương”, hay “Má hồng da tuyệt, thế là không đúng với giọng Huế); từ có dấu nặng thì nghiêng về dấu huyền; từ dấu huyền thì nghiêng về không dấu.

[2] “Ém khống biếc. Ánh khống dằng do chí cả” (Em không biết. Anh không dặn dò chi cả). Không phân biệt từ kết thúc bằng t hay c, tất cả đều là c; không phân biệt từ có g hay không, tất cả đều có g.

[3] Thơ Huy Cận.

Có thể bạn cũng quan tâm